Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

12 tháng 11 2011

“Quần chúng tự phát”, cái gai trong thực thi dân chủ


"Quần chúng tự phát", cái gai trong thực thi dân chủ

Mặc Lâm, Biên tập viên RFA

clip_image001  

Cả trăm giáo dân Thái Hà diễu hành đòi chính quyền bảo vệ nơi thờ phượng. Source Nuvuongcongly

 

Quần chúng tự phát là nhóm từ đã có từ lâu trong các vụ đàn áo tôn giáo, đặc biệt là Công giáo nay đã xuất hiện trở lại trên báo Hà Nội Mới. Liệu hành động này nói lên điều gì đối với nền dân chủ tại Việt Nam?

Mặc Lâm phỏng vấn luật gia Lê Hiếu Đằng để tìm câu trả lời sau đây.

Mặc Lâm: Mới đây báo Hà Nội Mới bình luận việc hàng trăm quần chúng tự phát đã tràn vào đập phá nhà thờ Thái Hà do bức xúc việc nhà thờ đòi lại đất bệnh viện Đống Đa. Ông có cho rằng với truyền thống hiền hòa của dân tộc thì những quần chúng mà báo Hà Nội Mới gọi là tự phát này có phải là tự phát hay không?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Tôi nhớ trước đây cái vụ Bát Nhã ở Lâm Đồng - Bảo Lộc cũng có một tình hình tương tự. Về mặt tôn giáo tôi không biết sự việc nó như thế nào nhưng tôi cho trách nhiệm của nhà nước là phải giữ gìn an ninh trật tự, thành ra nếu quả thật là quần chúng tự phát nhưng vào nhà thờ để mà làm như vậy thì trách nhiệm của nhà nước là phải dẹp chứ không thể để người ta làm như vậy được.

Nếu xảy ra đụng độ giữa giáo dân và số người tự phát đó thì tình hình sẽ phức tạp hơn. Tôi cho trong việc này đã tạo ra một số hoài nghi trong quần chúng là nhà nước dàn dựng. Việc này tôi thấy không nên, nó làm cho uy tín của chính quyền Hà Nội sẽ bị giảm sút.

Ô. Lê Hiếu Đằng

Thật ra tranh chấp giữa nhà thờ và nhà nước về vấn đề đất đai hiện nay đang còn tồn tại. Về nguyên tắc tôi biết ngay tại thành phố Hồ Chí Minh những cái gì mà mượn những gì phải trả lại vẫn còn nhiều. Theo trình bày của mấy vị linh mục Thái Hà thì đó là đất của nhà thờ và bây giờ biến thành bệnh viện hay cái gì đó thì tôi không biết rõ nhưng việc gọi là quần chúng tự phát với hàng trăm người vào đó thì lẽ ra công an phải can thiệp.

Bởi vì nếu xảy ra đụng độ giữa giáo dân và số người tự phát đó thì tình hình sẽ phức tạp hơn. Tôi cho trong việc này đã tạo ra một số hoài nghi trong quần chúng là nhà nước dàn dựng. Việc này tôi thấy không nên nó làm cho uy tín của chính quyền Hà Nội sẽ bị giảm sút.

clip_image002

Luật gia Lê Hiếu Đằng. Source chimbiendao

Người ta đặt vấn đề tại sao biểu tình yêu nước, lý do rất là chính đáng thì anh lại dẹp? Anh dùng những biện pháp mạnh, anh huy động cả một lực lượng công an cảnh sát chìm nổi rất hùng hậu để đàn áp, dẹp biểu tình. Trong khi việc này cần sự thương lượng, đối thoại để tìm giải pháp thì anh lại dùng quần chúng tự phát để giải quyết? Tôi cho là việc làm này đứng về mặt quản lý nhà nước là không có trách nhiệm.

Vai trò của Ban tôn giáo chính phủ?

Mặc Lâm: Là người từng giữ chức Phó chủ tịch UBMTTQ thành phố ông nhận thấy vai trò của Ban tôn giáo Chính phủ có thực sự là gạch nối giữa chính quyền và tôn giáo hay không, và nếu chưa thì phải cải tổ như thế nào để giảm bớt căng thẳng giữa nhiều giáo hội và nhà nước như trong thời gian vừa qua?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Đúng là vai trò của Ban Tôn giáo Chính phủ là phải hiểu hết những vấn đề của tôn giáo và phải thật sự khách quan trong việc đó để có tiếng nói có sức thuyết phục.

Nếu Ban Tôn giáo Chính phủ cũng đứng về mặt quản lý nhà nước để có những biện pháp này kia thì tôi cho là người ta không cần phải dựa vào Ban Tôn giáo Chính phủ nữa.

Tôi nhớ trường hợp trên Bảo Lộc cũng vậy, Ban Tôn giáo Chính phủ không có vai trò gì cả. Thành ra tôi cho rằng đã là Ban Tôn giáo Chính phủ thì anh phải khách quan, phải nhìn nhận vấn đề một cách trung thực chứ không phải vì anh là Ban Tôn giáo Chính phủ mà anh đứng về phía nhà nước, hay là anh bị vô hiệu hóa, hoặc anh thờ ơ không có ý kiến gì cả thì như vậy sẽ rất là tai hại và vai trò của Ban Tôn giáo Chính phủ sẽ rất hình thức không có ý nghĩa thực tiễn gì.

Mặc Lâm: Cho tới nay nhiều người bị bắt và giam giữ quá thời hạn quy định của luật cho phép mà thân nhân của họ không biết tin tức cũng như sự sống chết của họ điển hình như trường hợp của blogger Điếu Cày. Dưới quan điểm của một luật gia thì việc này có thể chấp nhận hay không và nếu không thì điều gì khiến ông quan ngại nhất?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Tôi cho rằng việc bảo vệ quyền công dân là vấn đề rất lớn hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nếu chúng ta có độc lập mà nhân dân không có tự do hạnh phúc thì cái độc lập đó không có ý nghĩa gì. Vì vậy khi chúng ta độc lập rồi thì các quyền tự do dân chủ của người dân phải được tôn trọng theo luật pháp.

Tôi phản đối bất cứ những ai bị bắt quá luật định, bị bắt không được xử một cách công khai minh bạch thì chính bản thân nhà nước lại vi phạm luật pháp thì điều này không thể chấp nhận được. Trường hợp anh Điếu Cầy hay bất cứ người nào cũng vậy thôi, bản thân tôi phản đối và tôi đề nghị chính quyền phải hết sức minh bạch và công khai trong việc bắt bớ giam giữ công dân.

clip_image003

Chiều ngày 03/11/201, một đám côn đồ khoảng 200 người đã kéo vào Nhà thờ Thái Hà phá phách, gây rối trật tự, uy hiếp Dòng tu. Source Giáo Xứ Thái Hà

Nếu họ có tội thật sự thì phải công khai minh bạch, tội đó là tội gì, bằng chứng ra sao? Còn nếu không thì phải thả họ ngay theo đúng quy định của luật pháp. Với tư cách quản lý nhà nước mà lại vi phạm luật pháp thì không chấp nhận được.

Tranh luận dân chủ: tại sao lại sợ?

Mặc Lâm: Ông đã tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới và chia sẻ nguyện vọng cũng như ý kiến trái chiều của họ. Ông đánh giá thế nào về những ý kiến khác nhau đôi khi gay gắt này?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Tôi nhớ trong một nghị quyết của Bộ Chính Trị trước đây có nói rằng trong xã hội thì vấn đề có những ý kiến khác nhau thì đây là việc tự nhiên, không có gì nghiêm trọng cả và phải tôn trọng những ý kiến khác nhau đó.

Tôi nghĩ trong xã hội dân chủ thì phải vậy. Nếu chúng ta chỉ một chiều, chúng ta nói một cách không thật, không có ý kiến phản biện của người dân, nhất là giới trí thức thì xã hội như vậy sẽ đi đến độc đoán mà chúng ta thường nói trở thành một nhà nước toàn trị.

Trong một nghị quyết của Bộ Chính Trị trước đây có nói rằng trong xã hội thì vấn đề có những ý kiến khác nhau thì đây là việc tự nhiên, không có gì nghiêm trọng cả và phải tôn trọng những ý kiến khác nhau đó. Tôi nghĩ trong xã hội dân chủ thì phải vậy.

Ô. Lê Hiếu Đằng

Vì vậy chính vì có nhiều ý kiến khác nhau, có phản biện xã hội và tạo nên xã hội công dân hiện nay là yêu cầu hết sức lớn của Việt Nam. Giữa nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự mới có sự giám sát để đi đến một nhà nước thật sự dân chủ.

Nếu chúng ta không có ý kiến đa chiều, ý kiến phản biện xã hội thì nhà nước sẽ trở thành độc đoán và các quyền tự do dân chủ của người dân sẽ bị hạn chế.

Vì vậy hiện nay nhân dịp sửa đổi hiến pháp nhiều trí thức trong nước cũng đặt vấn đề chính hiến pháp năm 1946 là hiến pháp rất tiến bộ vì đã tôn trọng tự do dân chủ của người dân và chúng ta cần nghiên cứu vì một số điều khoản trong hiến pháp mà hiện nay vẫn còn phù hợp, vẫn còn sức sống để tạo nên một xã hội dân chủ thật sự.

Một sự đồng thuận trong xã hội thật sự chứ không phải đồng thuận một cách giả tạo, một chiều như một số trường hợp hiện nay.

Ai trói tay, ai bịt miệng

Mặc Lâm: Thưa ông để tiếp tục câu chuyện về dân chủ hôm nay xin được nêu câu hỏi với ông, hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp dân chủ nhất, điều này có ý nghĩa như thế nào thưa ông?

clip_image004

Tu viện Dòng Chúa Cứu thế Thái Hà có lịch sử và được nhà nước mượn. Phòng Thánh đã được biến thành chỗ ăn chơi, nhảy đầm. Source nuvuongconly

Ô. Lê Hiếu Đằng: Hiện nay nhân dịp sửa đổi hiến pháp nhiều trí thức trong nước cũng đặt vấn đề chính hiến pháp năm 1946 là hiến pháp rất tiến bộ vì đã tôn trọng tự do dân chủ của người dân và chúng ta cần nghiên cứu vì một số điều khoản trong hiến pháp mà hiện nay vẫn còn phù hợp, vẫn còn sức sống để tạo nên một xã hội dân chủ thật sự.

Một sự đồng thuận trong xã hội thật sự chứ không phải đồng thuận một cách giả tạo, một chiều như một số trường hợp hiện nay.

Mặc Lâm: Là một luật gia chắc ông cũng đồng ý rằng có quá nhiều luật được ghi trong hiến pháp nhưng thiếu văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện, như luật biểu tình chẳng hạn. Hay có văn bản nhưng lại sai lệch nội dung một cách nguy hiểm. Đây có phải là sự trì hoãn cố tình của các cơ quan trách nhiệm nhằm bảo vệ quyền lợi hay lợi ích nhóm của họ hay không thưa ông?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Tôi cho rằng hiến pháp là văn bản cao nhất do đó nếu có văn bản hướng dẫn, hay văn bản dưới luật thì phải tôn trọng những điều khoản trong hiến pháp. Có trường hợp văn bản hướng dẫn lại đi ngược lại cái tinh thần của hiến pháp, của các bộ luật cơ bản.

Những văn bản dưới luật là cần thiết nhưng tôi nghĩ nên hạn chế bởi vì đôi lúc nó đi ngược lại hiến pháp và các bộ luật cơ bản.

Một số bộ luật cơ bản đã ghi rất cụ thể rồi, ví dụ tôi nói vấn đề biểu tình, đây là cái quyền của người dân, bây giờ chúng ta phải cần có luật để thể chế hóa, cụ thể thêm về luật biểu tình thì rất cần thiết thì mới đáp ứng được yêu cầu của người dân.

Hiện nay trào lưu dân chủ tiến bộ trên thế giới người dân Việt Nam người ta cũng hiểu rất nhiều bởi vì các phương tiện Internet, những thông tin rất phong phú và người dân thấy rằng nó là khuynh hướng không thể nào đi ngược lại.

Ô. Lê Hiếu Đằng

Trong khi đó thì Quốc hội lại có những cái luật vớ vẩn như luật nhà văn, trong khi một số luật mà quốc hội đặt vấn đề như luật Trưng cầu dân ý, Luật biểu tình và một số luật cần thiết khác thì lại không làm.

Tôi cho là những văn bản nào đi ngược lại với hiến pháp thì người dân có quyền tự mình áp dụng những điều khoản đã quy định trong các luật cơ bản. Còn những văn bản hướng dẫn dưới luật mà đi ngược lại hiến pháp thì chính nhà nước và chính phủ đã vi phạm những văn bản cao nhất tức là bộ luật cơ bản.

Mặc Lâm: Theo ông thì cách cảm nhận và ý thức dân chủ trong dân chúng nói chung và cán bộ đảng viên nói riêng có theo định hướng của đảng hay họ ý thức theo cách riêng?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Tôi cho rằng hiện nay trào lưu dân chủ tiến bộ trên thế giới người dân Việt Nam người ta cũng hiểu rất nhiều bởi vì các phương tiện Internet, những thông tin rất phong phú và người dân thấy rằng nó là khuynh hướng không thể nào đi ngược lại.

Nếu đổi mới về kinh tế mà không đổi mới chính trị để có xã hội dân chủ thì nó sẽ đi đến chỗ kinh tế khó phát triển nhưng mà những lợi ích thì lại thuộc về các nhóm, vào tay các cá nhân chứ nó không đem lại lợi ích cho quần chúng.

Ví dụ bây giờ nhà nước đang chủ trương tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nhưng thật ra chính những ngân hàng nó làm ẩu, nợ xấu tràn ngập bây giờ lại lấy tiền dân để giải cứu ngân hàng đó thì rất vô lý. Nó tương tự như trường hợp ở Mỹ.

Tôi tiếp xúc rất nhiều tầng lớp, người ta thấy rằng vấn đề sinh tử, sống còn hiện nay là dân chủ và tiếng nói của người dân sẽ quyết định vì quốc hội, các tổ chức mặt trận tổ quốc, các đoàn thể hiện nay còn rất hình thức.

Tôi tham dự rất nhiều cuộc họp thì thấy bản thân Đảng cộng sản Việt Nam cũng đánh giá vai trò hiện nay là hình thức. Điều này sẽ tạo nên bầu không khí mất dân chủ và người dân người ta thấy rằng không thể yên tâm sống trong một xã hội không được luật pháp bảo hộ.

Mặc Lâm: Theo nhận xét của ông thì người dân hiện nay có cho rằng việc trực tiếp tranh luận hay phản biện một vấn đề gì đó với một ông chủ tịch Xã hay Phường là quyền mà họ được hiến pháp bảo vệ hay không?

Ô. Lê Hiếu Đằng: Thật ra họ có ý thức về việc đó nhưng bây giờ trong xã hội Việt Nam có một vấn đề lớn là họ sợ. Họ sợ bởi vì đã có những trường hợp không biết lý do gì mà họ bị bắt, bị đe dọa, thậm chí con cái họ bị uy hiếp.

Có những người đi biểu tình vừa rồi thì bị đối xử như vậy thành ra vấn đề là họ rất muốn nhưng không dám. Chẳng hạn chung quanh vấn đề ruộng đất, đất đai là vấn đề rất lớn. Họ muốn đấu tranh để bảo vệ những quyền lợi của họ nhưng lại không dám.

Nếu trong một xã hội tôn trọng những cái quyền của người dân thật sự thì sẽ có những người đứng ra để mà đấu tranh phản biện lại với chính quyền, và tôi cho cái chuyện này là nên, miễn họ đấu tranh trong vòng trật tự, không làm xã hội rối loạn, không có những hành động quá khích thì như vậy chính quyền phải tôn trọng và xem đó là thước đo lòng dân đối với chủ trương chính sách của nhà nước chứ không nên xem đó như là một việc cấm kỵ.

Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.

Video: Giáo dân Thái Hà, Hà Nội yêu cầu Nhà nước trả lại

tu viện

M.L.

Nguồn: rfa.org


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/quan-chung-tu-phat-cai-gai-trong-thuc.html

Gian, tham, ngu, ác, mắc câu, ‘giãy chết’?


Gian, tham, ngu, ác, mắc câu, 'giãy chết'?

Trần Minh Thảo

image Chuyên gia tư vấn kinh tế Nguyễn xuân Nghĩa đặt câu hỏi: Hiệp định xuyên Thái Bình Dương một vòng đai vây quanh Trung Quốc?

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific partnership-TPP) là dự định của khoảng 14 quốc gia quanh Thái Bình Dương, trong đó 3 nước sáng lập là Chile, Newzealand, Singapore; nước tiếp theo là Brunei; 5 nước xin gia nhập tiếp là Hoa Kỳ, Úc, Việt Nam, Peru, Malaysia; 5 quốc gia quan sát viên có khả năng xin gia nhập chính thức kỳ này là Canada, Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Philippines. Điểm lại, Trung Hoa là nước đứng ngoài. Hoa kỳ vào sau nhưng lại chủ động thúc đẩy hình thành khối kinh tế này trong Hội nghị APEC tới đây (12-13/11/2011).

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa nói, Hiệp ước kinh tế tự do (bỏ hàng rào thuế quan) không có Trung Quốc tham gia vì các quốc gia tham dự không công nhận hệ thống kinh tế quốc doanh của Trung Quốc là kinh tế thị trường tự do.

Việt Nam sẽ gặp thử thách và sẽ là cơ hội... chứng tỏ được mình. Để được gia nhập Hiệp ước này thì Việt Nam phải từ bỏ kinh tế quốc doanh, phải thoát ly sự lệ thuộc kinh tế Trung Quốc. Nếu không muốn hay không được tham gia Hiệp ước này hẳn chứng tỏ đảng, nhà nước Việt Nam còn muốn giữ chặt hệ thống kinh tế quốc doanh vì đặc quyền, đặc lợi và tự nguyện đời đời nương bóng Trung Hoa anh em. Đó là việc 'chờ xem' trong vài ngày tới.

TPP là vòng vây kinh tế đối với Trung Quốc và cả Việt Nam, nếu…

Ngoài vòng đai 'đối tác xuyên Thái Bình Dương' sắp hình thành, nhiều nhà nghiên cứu quốc tế cũng cho rằng thế giới đã hình thành một vành đai địa chính trị ngăn chặn hiểm họa bành trướng Bắc Kinh có mắt xích yếu là Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Điện, Pakistan…

Từ câu hỏi của ông Nguyễn Xuân Nghĩa, ta lại có câu hỏi tiếp: Tại sao loài người tiến bộ, yêu chuộng hòa bình lại có nhu cầu về một 'vòng đai' bao vây chủ nghĩa bành trướng Đại Hán?

Trong nhiều cách lý giải, tôi thấy cách sau đây là gần với sự thật và rất am hiểu 'văn hóa chính trị Đại Hán': do chủ nghĩa ấy GIAN,THAM, NGU, ÁC.

Ai gian, ngu, tham, ác? Dân tộc Hán không ngu mà cũng không tham. Dân tộc Hán thuộc loại văn minh sớm nhất của nhân loại, thông minh, cần cù, yêu chuộng hòa bình. Chính 'quyền lực cai trị kiểu chủ tớ' truyền thống bành trướng Đại Hán mới gian, ngu, tham, ác. Đã gian lại ngu, tham, ác nên thường mắc câu, tự chui vào bẫy và bị người dân trong nước, nhân loại oán ghét, tẩy chay.

Để chứng minh tập đoàn thống trị Đại Hán 'Gian, Tham, Ngu, Ác, mắc câu, đang giãy chết' thì cần một công trình nghiên cứu khoa học sâu rộng. Là người Việt bình thường, tôi thử lý giải 'GIAN, NGU, THAM, ÁC, MẮC CÂU,GIÃY CHẾT' của chủ nghĩa bành trướng đại Hán theo cách bình dân Việt.

Hoa Kỳ nợ Việt Nam những gì?

Năm 1972, Tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon thăm Trung Quốc. Nixon, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đồng thuận với nhau những gì vẫn còn nhiều điều chưa công khai. Sau chuyến thăm ấy người Mỹ rút quân khỏi Việt Nam một cách an toàn. Đến năm 1974, Bắc Kinh đưa quân đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa quản lý. VNCH nói Hoa Kỳ phản bội vì tàu chiến Hạm đội 7 đang trong khu vực mà không can thiệp giúp đồng minh VNCH.

Tháng 1 năm 1979, Đặng Tiểu Bình được Tổng thống Hoa kỳ Jimmy Carter hứa hẹn những gì chưa rõ thì đến tháng 2/1979 Trung Quốc xua quân qua biên giới 'dạy cho Việt Nam một bài học'. Sau lần Trung Quốc 'dạy Việt Nam một bài học' ấy thì khối xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng dẫn đến vỡ tan.

Hoa Kỳ đã dùng miếng mồi Việt Nam câu nhử con ác thú Trung Nam Hải vừa ngu vừa tham cắn câu (cũng như dùng Afghanistan làm mồi nhử Liên Xô). Con ác thú mắc câu góp phần làm tan rã hệ thống chủ nghĩa xã hội mà chính nó, ngày nay đang giẫy giụa. Con ác thú bành trướng vừa ngu vừa tham giãy giụa tìm đường thoát, dân tộc Trung Hoa và nhân loại được, mất những gì?

Dư luận quốc tế cũng đang bàn tán việc Thủ tướng LB Nga V. Putin đưa ra mồi nhử 'liên minh Âu Á' với Trung Nam Hải. Có thể trong cơn bĩ cực, thế lực bành trướng Đại Hán do ngu và tham lại mắc câu người Nga.

Không có dân tộc nào ngu, chỉ có bọn cầm quyền tham lam nên bị người ta cho mắc câu, nuốt không vào, khạc không ra làm cho đất nước lâm cảnh khốn đốn.

Quả thật do gian, tham, ngu, ác chủ nghĩa bành trướng bị đối phương lừa đã nuốt miếng mồi Hoàng Sa, Trường sa, Biển Đông của Việt Nam nhưng nuốt không vào, khạc ra cũng chẳng được. Nuốt không vào, khạc không ra nên bày trò bài bây: 'gác tranh chấp cùng khai thác'. Tưởng là kế sách dụ hoặc được người hóa ra lại tự chứng tỏ bản thân lâm thế lỡ cắn câu, mắc xương ngang cổ, thế giãy chết, bị loài người ghét bỏ. Gỡ bỏ cục xương mắc ngang cổ của chủ nghĩa bành trướng là việc của dân tộc Trung Hoa.

Việt Nam đòi nợ thế nào?

Thời gian qua đã có nhiều học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam trình bày kế sách phát triển đất nước. Hiểu theo cách nào đó là kế sách buộc Hoa Kỳ 'trả nợ', có trách nhiệm hỗ trợ Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, phát triển bền vững, giàu mạnh. Đó là kế sách đổi mới lần hai, là kế sách thoát Hán. Trước mắt là tham gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership- TPP) bằng cách thỏa mãn các điều kiện về kinh tế thị trường tự do, không liên quan gì đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Nước nhỏ, nghèo yếu, quyền lực cai trị lại tham lam, ngu hèn thì dễ bị nước lớn dùng làm mồi câu trong các thủ đoạn bang giao quốc tế. Đã thấy ra rồi thì nên xử sự có tư cách , không nên học thói 'Chí Phèo' làm mất thể diện quốc gia, lòng tự trọng, phẩm giá dân tộc, làm lỡ thời cơ của đất nước.

Nhân thời cơ thuận lợi, bọn bành trướng đang 'mắc xương', 'giãy chết', quyền lực cai trị nên chứng tỏ với dân ý chí độc lập, tự chủ, đồng hành với thế giới văn minh, sớm đưa đất nước thoát khỏi họa chìm thuyền cùng 'chủ nghĩa bành trướng gian tham ngu ác'.

Đó là lòng dân.

T.M.T.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/gian-tham-ngu-ac-mac-cau-giay-chet.html

07 tháng 11 2011

Trung Quốc đang rung cây dọa khỉ hay đang chờ thời để gây chiến cướp Biển Đông?


Trung Quốc đang rung cây dọa khỉ hay đang chờ thời để gây chiến cướp Biển Đông?

Nguyễn Hoàng Hà

image Một cơ sở của tập đoàn dầu khí ExxonMobil tại Texas.(Ảnh : Reuters)

Mấy ngày qua báo chí Trung Quốc sôi động như lên đồng khi được biết Tập đoàn Mỹ Exxon Mobil loan báo phát hiện mỏ dầu khí mới ngoài khơi miền Trung Việt Nam. Bắc Kinh đã lập tức lên tiếng cảnh cáo.

Trước tiên là Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 31/10/2011 đã tuyên bố là các công ty ngoại quốc không được quyền thăm dò và khai thác tại các vùng thuộc chủ quyền của Bắc Kinh.

Như vậy đây là lần thứ 3 Bộ Ngoại giao Trung Quốc chính thức tuyên bố kiểu này trước công ty của Ấn Độ và nay là công ty của Mỹ. Nhưng nghiêm trọng nhất vẫn là "vô trách nhiệm một cách thô thiển": Đây là nhận định của Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosariovề bài viết trên tờ Hoàn cầu thời báo Trung Quốc (Global Times) ngày 25/10/2011. Theo báo chí Philippines, lãnh đạo ngành ngoại giao nước này đã bình luận như trên về lời hăm dọa rằng Việt Nam và Philippines "phải chuẩn bị tinh thần để nghe tiếng đại pháo" của Trung Quốc.

Dư luận quốc tế và dư luận Philippines và Việt Nam đều cho rằng đây là hành động khủng bố bằng miệng đe dọa an ninh không phải của riêng hai quốc gia này mà là đe dọa đến an ninh toàn khu vực Đông Nam Á và thế giới, nhất là sự an toàn của các công ty tập đoàn các nước làm ăn với các quốc gia này trên chính vùng biển thuộc chủ quyền của mình.

Đặc biệt cũng mới hôm 31-10-2011, tiến sâu thêm một bước, báo chí Trung Quốc đã lên tiếng coi thường sức mạnh của Hoa Kỳ tại khu vực Biển Đông và cho rằng Mỹ không còn đủ hơi sức gây chiến với Trung Quốc một khi tình huống xấu xảy ra.

Tiếng nói hàng đầu lên tiếng kiểu này là Hoàn cầu thời báo– một tờ báo theo trường phái cứng rắn tại Trung Quốc, thường đăng tải những phát biểu của các nhân vật diều hâu trong chính giới Trung Quốc. Bài báo tiếp tục đưa ra một loạt bài đả phá chính sách của Hoa Kỳ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ấn bản tiếng Anh của báo này hôm thứ Hai 30/10 có bài bình luận của tác giả Long Thao, một chuyên gia từ Ủy hội Quỹ tài chính về Năng lượng Trung Quốc, nói về sự tham gia của Mỹ trong các vấn đề khu vực. Bài viết của ông Long Thao mang tựa đề "Mỹ không có bụng dạ đâu cho việc đụng độ quân sự tại Nam Hải (Biển Đông)", phân tích rằng Hoa Kỳ nay đã không còn đủ sức lực và ý chí để tham gia xung đột vũ trang với tựa đề "Mỹ đã đuối sức".

Theo hãng Reuters, trong buổi họp báo thường kỳ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi xác định trở lại điều được gọi là «lập trường nhất quán» của Bắc Kinh, theo đó Trung Quốc có «chủ quyền không thể tranh cãi» trên Biển Đông, do đó các công ty nước ngoài nên tránh tham gia vào các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong vùng biển có tranh chấp.

Nhưng thực tế thì lại khác hoàn toàn, những khu vực mà Tập đoàn Mỹ Exxon Mobil loan báo, hôm 25/10, là họ đã tìm thấy dầu khí ở ngoài khơi Đà Nẵng, nằm trong ba lô mang ký hiệu 117, 118, và 119 giao cho Exxon Mobil đều thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, chiếu theo luật biển quốc tế chứ không phải nằm trong khu vực đường lưỡi bò mà Trung quốc đòi chủ quyền. Như thế các lô này và toàn thể Biển Đông theo quan điểm của Bắc Kinh là ao nhà của họ.

Người ta đặc biệt chú ý tới buổi họp báo, ông Hồng Lỗi tuy nhiên đã không trả lời thẳng câu hỏi là liệu Trung Quốc có kế hoạch đòi Exxon Mobil rút khỏi thỏa thuận làm ăn với Việt Nam hay không mà chỉ nói chung chung: "Chúng tôi hy vọng là các công ty nước ngoài không can dự vào công việc thăm dò và khai thác dầu khí tại các vùng biển đang tranh chấp". Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng không nêu đích danh Tập đoàn Exxon Mobil.

Về phần mình, Exxon Mobil vẫn chưa cho biết quy mô mỏ dầu khí mà họ vừa phát hiện. Tuy nhiên, theo một số nguồn tin báo chí, Exxon Mobil tin rằng trữ lượng mỏ này có thể lên đến 5 nghìn tỷ feet khối (cf). Địa điểm mà Exxon khoan mũi thứ hai mang tên là Cá Voi Xanh 2X, thuộc lô 118, gần bể trầm tích Phú Khánh, ngoài khơi bờ biển Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam.

Lời hù dọa hay là chiến thuật rung cây dọa khỉ của Trung Quốc?

Những tuyên bố mà Trung Quốc từ cả hai phía chính thức và báo lá cải tung ra lúc này nghe giọng điệu có vẻ giống tiếng tù và sừng dê khi Trung Quốc phát động cuộc tấn công xâm lược xuống biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979, nhưng chỉ khác là hoàn cảnh lúc này tiếng sừng dê đó lạc lõng và không khiến cho các tập đoàn quốc tế cũng như Việt Nam và Philippines lo sợ chút nào. Họ thấy đây không phải là lần đầu tiên mà Trung Quốc gây áp lực «cấm» các công ty nước ngoài làm ăn với Việt Nam trong đó có Exxon.

Người ta còn nhớ, tháng 7 năm 2008, báo chí Hồng Kông tiết lộ: "Bắc Kinh đã cảnh cáo Tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ Exxon Mobil là nên từ bỏ hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam tại hai lô 135 và 136 trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam ở Biển Đông, cho rằng điều đó vi phạm chủ quyền Trung Quốc. Thông qua các nhà ngoại giao của họ tại Washington, Bắc Kinh đã nhiều lần đe dọa, quyền lợi của Exxon tại Trung Quốc có thể bị tổn hại nếu không tuân lệnh. Chính quyền Việt Nam vào khi ấy đã nhấn mạnh rằng, thỏa thuận giữa Hà Nội với các đối tác dầu khí ngoại quốc, đều chỉ liên quan đến các vùng biển nằm trong khuôn khổ quyền hạn và chủ quyền hợp pháp của Việt Nam. Nhưng thái độ hung hăng của Bắc Kinh không làm cho Tập đoàn này nhụt chí mà trái lại càng quyết tâm hơn, cứng rắn hơn trong việc chống lại áp lực của Bắc Kinh

Và rõ ràng tình thế đã không chiều theo ý các nhà quân sự và chính khách diều hâu của Trung Quốc, trái lại mọi người đều cho rằng Trung Quốc đang tìm cách đe dọa các nước nhỏ ở khu vực để phân liệt Hoa Kỳ, nên chơi trò rung cây dọa khỉ chỉ đem lại bất lợi hơn cho họ mà thôi. Biểu hiện là, phản ứng của Philipines là cứng rắn hơn cả, như trong bài trả lời nhật báo Philippine Daily Inquirer bằng văn bản, ông del Rosario xác định: "Giọng điệu đó vang lên như một tuyên bố hiếu chiến và vô trách nhiêm một cách thô thiển…". Còn Ngoại trưởng Philippines thì cùng với chính kiến của mình còn đồng thời tố cáo tính chất coi thường luật pháp quốc tế của tờ Global Times của Bắc Kinh khi cho rằng lời lẽ của tờ báo này "đi ngược lại quan điểm của Philippines, đang tìm kiếm một giải pháp đúng luật lệ dựa trên Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển cho vấn đề biển Tây Philippines (tên Manila dùng để gọi Biển Đông)". Cùng với các tuyên bố cứng rắn, Manila đã kiên quyết không trả tàu thuyền mà họ bắt của Trung Quốc khi xâm phạm lãnh hải của mình mặc dù Trung Quốc lớn tiếng yêu cầu phải trả ngay lập tức và vô điều kiện. Còn Việt Nam thì tiếng nói của những người vốn thích trang sức bằng các khẩu hiệu "bốn tốt mười sáu chữ vàng"đã chìm nghỉm trong dư luận đang sôi sục lên án Trung Quốc hiếu chiến, hung hăng và bành trướng tại Việt Nam và khu vực cũng như trên thế giới. Hình ảnh của ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nước qua Ấn Độ và Philippines đã làm lu mờ những ký kết của ông Nguyễn Phú Trọng với ngài Hồ Cẩm Đào và càng tỏ ta mất hết ảnh hưởng khi chữ ký của ông Trọng chưa kịp ráo mực người ta đã nghe thấy giọng đe dọa của kẻ bá quyền bành trướng cất lên dọa Việt Nam và Philippines "chuẩn bị nghe tiếng đại bác gầm của Trung Quốc".

Tại sao Trung Quốc lại đưa ra lời đe dọa hung hăng đến vậy?

Như báo chí quốc tế đã phân tích, Bắc Kinh thấy những đòn gió này trước đây tỏ ra có hiệu lực, ví dụ: vào năm 2007, cũng với luận điểm bảo vệ chủ quyền, Trung Quốc đã thành công trong việc phá hủy hợp đồng giữa Việt Nam và tập đoàn Anh Quốc British Petroleum (BP) tại lô 5-2 và 5-3 ở vùng biển giữa quần đảo Trường Sa và hải phận của Việt Nam, với lý do là nơi đó nằm trong khu vực thuộc chủ quyền của Bắc Kinh. Một tập đoàn của Anh mà phải rút thì tập đoàn nào còn dám ho he bắt tay với "đàn em Việt Nam" nữa, Bắc Kinh có lẽ đã chắc mẩm như vậy.

Thật ra Tập đoàn BP đã đình chỉ kế hoạch thăm dò dầu khí ở vùng biển Việt Nam, trước khi bỏ hẳn hai năm sau, vì đã đầu tư quá sâu vào Trung Quốc và có nhiều lợi lộc thu được ở đó. Trái lại, với một tập đoàn kinh tế mà đứng đằng sau là tư thế của cả một cường quốc như Mỹ thì đâu có đơn giản.Các vụ gây sức ép đối với Tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ Exxon Mobil và kể cả đối với BP của Anh Quốc đã bị chính quyền Mỹ nhiều lần công khai phản đối nhân các cuộc điều trần ở Thượng viện Hoa Kỳ, hay trên các diễn đàn an ninh quốc tế, xem đấy là những vụ vi phạm trắng trợn quyền tự do kinh doanh.Trong cuộc điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ vào tháng 07/2009 chẳng hạn, ông Scot Marciel, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương đã tố cáo đích danh Bắc Kinh: "Từ mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã bắt đầu yêu cầu một số hãng dầu khí Hoa Kỳ và ngoại quốc là phải đình chỉ công việc thăm dò cùng với các đối tác Việt Nam tại vùng Biển Đông, nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả trong công việc kinh doanh với Trung Quốc".

Nhưng những phản ứng lúc đó của Hoa Kỳ vẫn chưa đủ mạnh và chưa bộc lộ rõ quyết tâm nên Trung Quốc không hề để tâm mà cứ làm theo ý mình, coi Mỹ không có liên quan đến khu vực tranh chấp này.

Nay tình hình đã khác. Hoa kỳ đã nhìn thấy tham vọng quá lớn của Trung Nam Hải đối với Biển Đông khi họ trưng ra đường lưỡi bò liếm hết cả con đường hàng hải mà Mỹ và các nước phải đi qua và khi các quyền lợi của Tập đoàn dầu khí Exxon Mobillớn của chính Hoa Kỳ và quyền lợi của họ không thể để mất được, nhất là nó lại nằm trong phần biển thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Nếu như vấn đề Đài Loan hay vấn đề Tây Tạng, hay vấn đề người Duy-ngô-nhĩ, v.v. Mỹ có thể tránh đối đầu với Trung Quốc vì lý do nào đó thì lúc này Biển Đông lại là câu chuyện mà Hoa Kỳ không thể lùi bước vì cả thế giới và khu vực Đông Nam Á đang theo dõi thái độ của Hoa Kỳ. Liệu con sư tử già Hoa Kỳ có phải chịu nhường miếng mồi béo bở cho con hổ Trung Quốc đang dương oai hay không? Đây chẳng phải chỉ là kinh tế mà còn là danh dự uy tín của Hoa Kỳ với thế giới hiện nay, nhất là với các đồng minh của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á. Vì thế người ta không ngạc nhiên khi ông Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á Thái Bình Dương của Ủy ban Đối ngoại gần đây lên tiếng nhấn mạnh: "Các hình thức hù dọa của Trung Quốc có thể gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế một cách công bằng và tự do trong vùng. Việc Trung Quốc bắt giữ ngư dân Việt Nam gần khu vực quần đảo Hoàng Sa, hay là những lời đe dọa công khai nhắm vào các tập đoàn dầu khí Mỹ hoạt động trong vùng Biển Đông, nêu bật các rủi ro ngày càng tăng đối với công việc đánh cá qua lại trong khu vực cũng như giới hạn việc thăm dò tìm kiếm tài nguyên. Nếu không bị phản đối, các hành động kể trên có thể tác hại đến sự thịnh vượng của khu vực".

Người ta cũng thấy Công ty dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh cũng bị Trung Quốc hù dọa, tuy vậy, sự đáp trả hoàn toàn khác với thái độ của Tập đoàn dầu khí nước Anh. Bắc Kinh đã chính thức gởi công hàm phản đối New Delhi về đề án thăm dò tại hai lô 127 và 128, cũng ở ngoài khơi miền Trung Việt Nam, trong lúc một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng, bất cứ một công ty ngoại quốc nào tham gia vào các hoạt động khai thác dầu khí trong những vùng thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc, mà không được phép của Trung Quốc, đều vi phạm chủ quyền cũng như quyền lợi của Trung Quốc. Thế nhưng Ấn Độ đã tuyên bố thẳng thừng vẫn tiếp tục cùng với Việt Nam làm tròn bổn phận đã ký kết.

Còn Việt Nam,trước những hành động vừa chơi rắn vừa ngọt nhạt của đàn anh, vừa ký kết với người đại diện tối cao của quyền lực là ông Tổng bí thư Đảng lại vừa lên tiếng chửi xéo ngay tức thì trên Hoàn cầu thời báo, nếu như không phải chỉ vì phải nhẫn nhịn trước chút quyền lợi "môi hở răng lạnh" nào đó nên đành "ngậm miệng ăn tiền" (mà không cần nói ai cũng thừa biết), thì hẳn trong thâm tâm Việt Nam cũng hiểu như ai về lòng dạ của "ông anh" bao giờ cũng chỉ muốn chơi khăm thằng em, bắt nó ngày càng rơi vào vòng tay của mình càng lúc càng khó cựa. Đặc biệt là cái hành động nói một đằng làm một nẻo, nó làm người ta nhớ lại lời nói đẹp của ông Đặng Tiểu Bình về tình hữu nghị với Việt Nam năm 1976 nhưng chỉ sau đó ba năm, năm 1979 ông Đặngđã phát động ngay cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam. Hẳn chắc về thế và lực, nay Việt Nam ngoài việc thương thuyết vẫn thương thuyết nhưng vẫn phải chuẩn bị áo giáp che đỡ cho mình khi ông Hồ Cẩm Đào nói với ông Nguyễn Phú Trọng những lời hữu nghị với khuôn mặt lạnh tanh mà phía sau cầm chắc con dao bầu Bắc Kinh đang thập thò đâu đấy.Người ta thấy rõ Việt Nam đã nhận các tàu chiến, máy bay, hỏa tiễn hiện đại của Nga và còn mua nhiều hơn nữa của các quốc gia khác như Hà lan và Ấn Độ v.v.

Đủ thấy lời đe dọa của Trung Quốc bao nhiêu lâu chưa hề đem lại lợi ích gì cho họ mà chỉ làm cho cả thế giới phải cảnh giác, trong đó có cả đưa em ngoan ngoãn Việt Nam. Thái độ của Bắc Kinh giờ đây không còn làm cho mọi người sợ như họ tưởng mà ngược lại càng đẩy các quốc gia này gắn bó với nhau thành một khối để sẵn sàng giờ gậy, dao, búa đập chết con hổ dữ một khi nó thực sự nhảy vào bắt gà lợn của các nước láng giềng.Các nhà quân sự Trung Quốc thừa hiểu một khi chiến tranh xảy ra thì nghiễm nhiên Trung Quốc bị bao vây tứ phía bởi cả một gòng kìm dày đặc Ấn, Mỹ, Việt Nam, Philippines, Nhật, Nam Hàn, v.v. Chắc chắn là con "Tài ngào Trung Quốc" đã nhìn thấy nhưng nó đang tính toán thế nào thì lại là chuyện phải nói dài thêm nữa. Hơn một tỷ người sống chủ yếu bằng xuất khẩu và không hề tự túc được lương thực, thực phẩm hỏi Trung Quốc có thể gây chiến với cả thế giới chăng? Điều này những cái đầu tài giỏi ở Thiên An Môn dư biết để cân nhắc xem có nên nghe các tiếng nói hiếu chiến hung hăng mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói đó là quan điểm riêng của người dân Trung Quốc hay không.

Tất nhiên là tình hình biển Đông vẫn tiềm ẩn nguy cơ sóng sẽ dâng cao khi mùi dầu đã loang ra và cái mũi Bắc Kinh rõ ràng là rất thính. Con hổ này có dám liều lĩnh giương nanh múa vuốt không, cái đó hẳn nó đang nhìn xem Hoa Kỳ và Việt Nam cùng các quốc gia trong khu vực có quyền lợi chung đang và sẽ làm gì? Nó vẫn đang phủ phục vươn mình chờ đớp mồi.

Ngày 31 tháng 10 năm 2011

N.H.H.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN. HT biên tập.


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/trung-quoc-ang-rung-cay-doa-khi-hay-ang.html

Hiểm họa im lặng


Hiểm họa im lặng

Trần Long

image TT - Để tồn tại và thích nghi trong môi trường làm việc nhiều thị phi, không ít người đã chọn cách im lặng. Hiện tượng này không mới nhưng ngày càng phổ biến. Sau khi Tuổi Trẻ có bài phản ánh, rất nhiều người bảo vệ cách ứng xử này. Một kết quả khảo sát cũng cho thấy gần 74% người được hỏi chọn cách im lặng.

Nhìn vào những con số thống kê hay mô tả về những người chọn cách sống im lặng, nhiều người dễ dàng lên tiếng phê phán, nhẹ thì cho rằng đó là những người chỉ biết sống an phận thủ thường, nặng hơn cho đó là tiêu cực, ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân. Đi vào thực tế từng đơn vị hay một tập thể nào đó, mọi người hiểu hơn tại sao người ta phải chọn "im lặng là vàng".

Đầu năm học mới, ngành giáo dục đưa ra chủ trương giảm tải chương trình, sách giáo khoa. Chủ trương rất tốt, được mọi người ủng hộ. Thế nhưng, cách thực hiện, nội dung giảm tải lại có quá nhiều vấn đề. Giáo viên phải lên tiếng, báo chí đăng những phát biểu của giáo viên, lập tức họ gặp chuyện. Có giáo viên phải làm báo cáo, có người phải giải trình. Từ đó, các giáo viên "xin" báo chí đừng liên lạc với họ nữa. Giáo viên sợ bị trù dập, sợ bị lãnh đạo làm khó trong công việc của mình.

Hẹp hơn, ở một số cơ quan đơn vị, lúc đầu thấy nhiều vấn đề có thể ảnh hưởng uy tín, sự phát triển của đơn vị mình, có người đã mạnh mẽ lên tiếng. Sau đó, họ bị chụp cho cái mũ bươi móc cái xấu của cơ quan. Đặc biệt, sự im lặng cũng đang xâm chiếm dần đến nhiều cuộc họp.

Có nơi ban đầu trong các cuộc họp, nhân viên thường lên tiếng phản biện cách xử lý, góp ý những vấn đề tồn tại của cơ quan đơn vị. Nhưng rồi những người "lớn tiếng" bị cấp trên "dập tả tơi" vào những sơ suất của họ. Thay vì được lắng nghe, được chia sẻ, họ bị đòn hồi mã thương, từ đó khiến nhiều người dần trở nên chán nản, lui về phòng thủ an toàn.

Cũng có một tâm trạng khác diễn ra khi người nghe, người tiếp nhận ở những vị trí cao hơn nhưng không thẩm thấu được những điều mà cấp dưới trình bày. Lâu dần, người trình bày ý kiến cảm nhận rằng những gì mình viết, mình nói là vô ích. Và họ cho rằng người thông minh, người thức thời thì chẳng nên nói, chẳng nên viết để khỏi phí hoài tâm sức. Sự ít nói, ngại trình bày ý kiến, quan điểm của mình dần dần đưa họ đến chỗ ít trăn trở, suy nghĩ về những vấn đề xung quanh và sau cùng là dửng dưng với cả tập thể, cả cuộc sống xung quanh...

Cho dù là tình huống nào, nguyên nhân đều có phần bắt nguồn từ môi trường làm việc. Sẽ không có những cá nhân dám trình bày ý tưởng, suy nghĩ của mình nếu lãnh đạo của tập thể đó không chịu lắng nghe. Cũng sẽ không có nhiều ý kiến, đóng góp từ cấp dưới nếu lãnh đạo luôn áp đặt mọi quyết định của mình.

Và ý kiến, đóng góp của cấp dưới cũng sẽ ít hơn khi quyền lợi, mục đích của người đứng đầu không đồng nhất với những người thuộc quyền. Khi cấp dưới, những người xung quanh ít góp ý, phản biện, người lãnh đạo sẽ thấy dễ dàng triển khai những chỉ đạo của mình vào thời gian đầu.

Nhưng lâu dần, tập thể đó sẽ cạn dần sức sống, sức sáng tạo, thậm chí đi lạc đường. Ý kiến đóng góp hay phản biện ngày càng ít dần, tập thể sẽ dần mất đi động lực phát triển. Thậm chí phát hiện ra đơn vị mình như một con thuyền tròng trành đi chệch hướng, những người im lặng cũng nhắm mắt làm ngơ.

Thực tế đó với bất kỳ tập thể nào cũng là một mối họa. Và mối họa đó càng lớn hơn khi nó lan rộng ra.

T.L.

Nguồn: tuoitre.vn


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/hiem-hoa-im-lang.html

Con bệnh của châu Á


Con bệnh của châu Á

(Cuộc khủng hoảng y tế của Trung Quốc)

Yanzhong Huang

Trần Ngọc Cư dịch

Vì bận tâm theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các nhà lãnh đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã có thái độ lơ là đối với y tế công cộng – một ngành, mà theo một số đánh giá, hiện còn tồi tệ hơn cả dưới thời đại Mao. Mặc dù có nhiều cải tổ gần đây, người dân TQ vẫn tiếp tục mắc nhiều bệnh hoạn hơn trước, một tình trạng đang đe dọa hệ thống y tế quốc gia, đe dọa nền kinh tế nói chung, và thậm chí cả sự ổn định của chế độ.

Tạp chí Foreign Affairs

Là một học giả gốc Hoa nên không những hiểu thấu nội tình "con bệnh Trung Quốc" hiện nay một cách đến nơi đến chốn, chỉ ra đúng tình trạng "nan y" của nó, Yanzhong Hoang (Hoàng Nghiêm Trung / 黄 严 忠)cũng cố gắng "kê đơn bốc thuốc" cho nó một cách tận tình, mong "con bệnh" mà mình có một phần liên hệ máu mủ, qua được cơn hiểm nghèo. Bài viết vì thế hơi dài, nhất là phần cuối.

Là con người với nhau, đang tồn tại chung trên một "thế giới phẳng", có lẽ trừ các ngài lòng lang dạ sói ở Trung Nam Hải ra chứ ai mà chẳng mong điều ấy. Nhưng nói thật tình, làm sao giải quyết được "ca" bệnh vô phương này theo phác đồ điều trị của ông "thầy thuốc" Hoàng Nghiêm Trung? Khó quá đi!

Này nhé, ông Hoàng cho rằng chính quyền Bắc Kinh hãy nâng bảo hiểm y tế lên cho dân nghèo được nhờ, không được bỏ rơi họ như từ sau 1980 khi Trung Quốc vừa mới chuyển sang nền kinh tế thị trường; cũng không được để họ hưởng một mức bảo hiểm "có cũng như không" như tình trạng đã có chút cải thiện hiện nay. Nhưng chính ông Hoàng cũng đã thấy đấy, thoát nghèo ở Trung Quốc thực tế hiện chỉ mới khoảng bốn, năm trăm triệu người, vậy thì còn lại tám chín trăm triệu con người đang sống dở chết dở ở khắp nước Trung Hoa mênh mông kia, làm cách gì để nâng bảo hiểm lên cho xuể bây giờ? Ngay ở thành phố thôi, ông Hoàng đã nhận ra một sự cấu kết ngầm giữa các thế lực đen – nói một cách mỹ miều như ở Việt Nam là các "nhóm lợi ích" – là cơ quan quản trị của Chính phủ, cụ thể là Bộ Y tế, Tổ chức bảo hiểm nhà nước với các bệnh viện để dìm mức an sinh lại ở cái trần thấp lè tè đừng cho nó nhích được lên, trong khi giá khám bệnh, giá dịch vụ y tế và giá thuốc thì cứ lên vô tội vạ; rồi thuốc giả, thuốc độc và nhiều thứ thực phẩm độc hại khác cũng tha hồ tung ra bán ở khắp nơi (mà chính Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đang chịu hệ lụy vô cùng nguy hiểm). Đó là chưa nói sự cấu kết ghê gớm giữa các tập đoàn tài phiệt nhà máy với bộ máy quyền lực để ung dung thải các chất độc hại ra môi trường khiến nhân dân cứ chịu chết mòn vì bệnh hiểm nghèo mà không biết kêu vào đâu được. Thế thì nói gì đến vùng sâu vùng xa Trung Quốc, một món bảo hiểm y tế còm vài chục đồng nhân dân tệ gọi là món tiền "an ủi" để người ta chết cho an tâm, mà muốn về được với dân còn phải qua bao nhiêu là cấp, thì phỏng còn lại bao nhiêu khi đến tận tay người nghèo? Chắc không cần tính ai cũng đoán ra dễ dàng. Cho nên, cách nghĩ của Hoàng Nghiêm Trung cứ đọc vào đã thấy ngay là ảo tưởng, từ nước Mỹ mà nhìn về "nước mẹ" rồi nghĩ rằng tấm lòng người cầm cân nẩy mực ở "nước mẹ" đang lo cho dân cho nước lắm. Ông nào đâu phải là kẻ nằm trong chăn để thấy rận lúc nhúc, như chính người Trung Quốc đại lục đang phải chịu, và cả... chúng tôi, ông cũng không thể nào "thấm thía" điều đó được như chúng tôi, vì sao thì xin ông cứ thử đoán xem. Ông Hoàng chẳng thấy tổ chức minh bạch thế giới vừa công bố Nga và Tàu là hai nước đội sổ thế giới về thứ hạng đưa và nhận hối lộ đấy ư?

Ông Hoàng lại kêu than về tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần, tỷ lệ người tự sát ở Trung Quốc bây giờ cao quá, có dễ đứng vào hàng nhất nhì thế giới. Chúng tôi là những người có đủ sự trải nghiệm để nói với ông nguyên nhân đưa đến mối tệ ấy. Cả một tỷ ba người Tàu, thôi thì cứ bỏ ra ngoài khoảng một trăm hoặc hai trăm gia đình có đủ tiền và quyền để muốn làm gì thì làm, còn lại thử hỏi ai mà không đang lúc nhúc trong một cái lồng rất lớn, bề ngoài trông có vẻ đẹp mẽ thật, có sơn son thếp vàng nữa, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ là cảnh cá chậu chim lồng, trong đó có cả vẹt và trâu, muốn nói thì hãy bắt chước vẹt, còn muốn điều gì khác thì đều phải có người dắt mũi như dắt trâu. Không rơi vào trầm cảm, không mắc chứng Alzheimer, các hội chứng tâm thần, hoặc tìm lối thoát bằng tự thiêu, tự sát bằng đủ mọi cách, thì còn biết tìm đường nào?

Ông Hoàng lại bảo cần để cho dân chúng được sinh đẻ theo tỷ lệ 2 con mỗi gia đình. Leo ôi! Chỉ cho phép một con mà dân số Trung Quốc mới 600 triệu từ thời Mao nay đã tăng vọt lên hơn tỷ ba rồi. Nếu cho phép 2 con thì chẳng mấy chốc chắc chắn sẽ là hai tỷ sáu. Thì rồi cả thế giới này phải hoảng loạn lên vì cái nạn nhân mãn từ Trung Quốc tràn đi khắp nơi mọi chốn, và chủ nghĩa phát xít kiểu Tàu hiện giờ đang lấp ló đầu mũi súng hẳn sẽ chuyển thành một thực hữu chóng vánh – một mối đe dọa cho toàn nhân loại, chắc chắn như vậy, xin cuộc với ông. Lúc bấy giờ loài người lại phải bảo nhau cùng kề vai sát cánh đứng dậy để loại trừ "anh cả đỏ" này đi, có phải là tiêu hao bao nhiêu máu và nước mắt hay không?

Hiện nay, một thứ hành động kiểu Nazi thời Hitler đã có thể nhìn ra ở một số dấu hiệu ngay trên đất Trung Quốc chứ không nói đâu xa. Thử hỏi ông Hoàng, chính quyền cộng sản đã đành là chính quyền gắn chặt với lưỡi lê và súng vì học thuyết bạo lực và chuyên chính vô sản, nhưng sau Stalin và Mao, có thứ bạo lực nào ghê tởm như vụ Thiên An Môn mà di chứng để lại rất nguy hại hiện là thói quen của đám công an coi thường mạng sống dân chúng, đến mức hễ gặp gì chúng không ưng ý là bắn chết người dân ngay trước mắt mọi người mà không chịu một tội vạ gì hết, thậm chí say xỉn lái xe đâm chết 7 mạng người cũng chẳng cần lo lắng gọi xe cứu thương – và không cho dân gọi xe cứu thương – mà lại cho gọi xe nhặt xác đến. Mà cái thứ máu lạnh này hình như không riêng trong ngành công an mà cũng đã lây lan rất nhanh đến một bộ phận người dân nữa kia, chẳng hạn số phận em bé bị xe tải cán đi cán lại dăm ba lần mà người qua đường cứ làm lơ mặc cho em chết trong đau đớn thê thảm, không phải là bằng chứng thì là gì?

Có cảm tưởng như lối sống bất cần đạo đức sơ đẳng là sự tôn trọng mạng sống con người đang trở thành một tâm lý đám đông trong xã hội Trung Quốc mất rồi, và điều đó hứa hẹn một sự thanh lọc, bằng đủ kiểu (thuốc độc, thức ăn độc hại, tai nạn cố ý, hay là nhiều cách khác nữa, kể cả tắm máu...), để loại bớt đi chừng một phần tư dân số, là chủ trương chiến lược, là "chiến lược con người" của kẻ cầm quyền kể từ Mao đến nay, có phải thế không nhỉ? Nếu đúng thế thì rồi đây chắc sẽ còn diễn ra nhiều tấn kịch rùng mình không kém gì các lò thiêu người ở Ba Lan thuở Hitler nhất là đối với các dân tộc thiểu số, cứ chờ đấy mà xem. Ông Hoàng hãy nhớ cho câu nói của GS Samuel Huntington, nhà khoa học chính trị Mỹ hết sức nổi tiếng vừa qua đời cách đây 3 năm: "văn hóa quyết định hành vi", thì văn hóa Trung Quốc trong mấy nghìn năm qua, chẳng phải nói như Lỗ Tấn là "văn hóa ăn thịt người" hay sao?

Vậy nên, chỉ có một con đường thôi ông Hoàng ạ. Đấy là đi đúng vào quỹ đạo mà nhân loại văn minh đã từng đi. Con đường ấy nhất định đưa đến tự do và dân chủ cho số đông, nó giúp cho người dân làm chủ số phận của mình, tạo nên một sức mạnh giám sát kẻ cầm quyền, không để họ tự tung tự tác. Con đường nào thì cũng có mặt phải trả giá cả nhưng xem ra con đường ấy là ít tồi tệ hơn cả thưa ông. Ngẫm cho cùng thì bao nhiêu tìm tòi, xoay xở của các bậc trí giả trong nhân loại từ hơn một thế kỷ rưỡi đã qua nhằm cứu với chúng sinh, không có con đường nào hơn được con đường ấy. Muốn cứu chữa "con bệnh Trung Quốc" cũng như giải thoát cho con bệnh của mọi cơ chế độc tài đang cố níu lấy lưng Trung Quốc để mong tồn tại được lâu chút nào hay chút ấy, chỉ có một cách là đánh thức lương tri họ, dứt khoát đánh thức bằng tất cả tâm huyết và sự ngay thẳng của người trí thức, để họ phải mở mắt ra và quyết tâm chuyển dịch sang con đường tự do và dân chủ. Ngoài ra không còn đường nào khác.

Nguyễn Huệ Chi

Mặc dù Trung Quốc (TQ) đã đạt được những tiến bộ kinh tế ngoạn mục trong những thập niên qua, nhưng sức khỏe của người dân TQ lại không được cải thiện như thế. Kể từ năm 1980, quốc gia này đã đạt mức tăng trưởng kinh tế trung bình 10% một năm và đưa 400-500 triệu người ra khỏi mức nghèo khổ. Tuy vậy, những dữ liệu chính thức của TQ cho thấy rằng tuổi thọ trung bình tại TQ chỉ tăng thêm khoảng 5 năm trong thời gian từ 1981 đến 2009, từ khoảng 68 tuổi lên 73 tuổi (Tuổi thọ đã tăng thêm gần 33 năm trong thời gian giữa 1949 và 1980). Trong những nước có tuổi thọ trung bình tương tự vào năm 1981 nhưng sau đó có mức tăng trưởng kinh tế chậm hơn TQ – chẳng hạn, Columbia, Malaysia, Mexico, và Nam Hàn – vào năm 2009 tuổi thọ trung bình đã tăng thêm 7-14 năm. Theo Ngân hàng Thế giới, thậm chí tại Australia, Hong Kong, Nhật Bản, và Singapore, những nơi có tuổi thọ cao hơn TQ rất nhiều vào năm 1981, tuổi thọ trung bình của người dân tăng thêm 7-10 năm trong cùng giai đoạn.

Gánh nặng bệnh tật của TQ (China's disease burden) – tức các hậu quả như tử vong, suy nhược thể chất, tổn thất tài chính… – còn cho giới quan sát thấy được một hình ảnh đáng

clip_image001

lo ngại. Cũng như nhiều quốc gia kém phát triển, TQ vẫn còn phải vật lộn với vô số mối đe dọa bệnh tật do vi trùng và vi rút gây ra, như HIV/AIDS, lao phổi, bệnh viêm gan, và bệnh dại. Chẳng hạn, hơn 130 triệu người tại TQ đang mang siêu vi gan B – chiếm khoảng 1/3 số người mang siêu vi gan B trên thế giới. Trong khi đó, tại TQ những bệnh mạn tính không lây nhiễm, đặc trưng của các nước phát triển, lại đang trở thành một vấn đề thậm chí còn khó chữa trị hơn. Theo Cuộc thăm dò về các dịch vụ y tế Quốc gia do Bộ Y tế TQ thực hiện năm 2008, 61% số người nhìn nhận có bệnh trong vòng 2 tuần trước đó cho biết rằng họ đang mang những bệnh mạn tính, so với con số 39% mười năm về trước. Một tài liệu nghiên cứu năm 2010 của tạp chí y học The New England Journal of Medicine cho thấy rằng TQ có số người bị bệnh tiểu đường lớn nhất thế giới và rằng bệnh này đang gia tăng ở TQ với một tốc độ nhanh hơn ở châu Âu và Hoa Kỳ. Gần 10% dân số TQ từ 20 tuổi trở lên bị bệnh tiểu đường – gần bằng tỷ số tại Hoa Kỳ (11%) và cao hơn hẳn tỷ số người bị bệnh tiểu đường tại Canada, Đức, và các nước phương Tây khác. Những chứng bệnh không lây nhiễm, gồm bệnh tim mạch, bệnh đường hô hấp mạn tính, và ung thư, gây ra 85% tổng số tử vong tại TQ ngày nay – cao hơn khá xa so với tỷ số trung bình trên thế giới, tức 60%. Một yếu tố quan trọng làm gia tăng tình trạng bệnh hoạn là sự già nua nhanh chóng của dân số TQ. Cuộc thống kê dân số năm 2010 cho thấy rằng tỷ lệ dân chúng tại TQ trong lứa tuổi từ 60 trở lên đã vượt quá 13% tổng số dân số, tăng thêm 3% kể từ năm 2000. Theo một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới, nếu TQ không có biện pháp hữu hiệu để giúp người già sống lành mạnh, gánh nặng [tức các hậu quả] của các bệnh không lây nhiễm có thể tăng thêm ít ra 40% vào năm 2030. Chẳng hạn, có dự báo cho rằng vào năm 2040 sẽ có nhiều người bị bệnh Alzheimer (lú lẫn) tại TQ hơn tại tất cả các nước phát triển cộng lại.

Ngày càng có nhiều người TQ mang bệnh tâm thần. Số liệu từ Bộ Y tế TQ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh rối loạn tâm thần đã tăng lên 50% từ năm 2003 đến 2008. Một cuộc thăm dò quan trọng ở tầm mức quốc gia được tiến hành từ năm 2001 đến năm 2005 có sự tham gia của Trung tâm Nghiên cứu và Phòng chống Tự sát Bắc Kinh tại Bệnh viện Huilongquan Bắc Kinh và căn cứ vào các cuộc phỏng vấn với 113 triệu người TQ trong bốn tỉnh cho thấy rằng 17,5% dân số, hay hơn 227 triệu người TQ, mắc phải một vấn đề tâm thần nào đó, như các chứng rối loạn tính khí hay bồn chồn lo lắng (mood and anxiety disorders). Đây là một trong những tỷ lệ số người bị bệnh tâm thần cao nhất thế giới. Mỗi năm tại TQ có khoảng 287.000 người tự tử; ở tỷ lệ 23 trong số 100.000 người, con số này cũng là một trong những tỷ lệ tự tử cao nhất thế giới và lớn hơn gấp đôi tỷ lệ tự tử tại Hoa Kỳ.

Bất chấp sự nghiêm trọng của những vấn đề y tế nói trên, vì quá chú tâm theo đuổi việc tăng trưởng kinh tế, các lãnh đạo TQ từ lâu đã có thái độ lơ là đối với y tế công cộng. Sau khi hệ thống y tế Mao-ít (Maoist) bắt đầu sụp đổ vào đầu thập niên 1980, những chi tiêu của Chính phủ dành cho ngành y tế được tính như một tỷ lệ GDP đã giảm, từ 1,1% vào năm 1980 xuổng khoảng 0,8% vào năm 2002. (Vào năm 2002, chi tiêu y tế của Chính phủ Hoa Kỳ chiếm 6,7% GDP). Việc đưa ra các cải tổ theo kinh tế thị trường vào thập niên 1980 lại càng gây thêm tổn thương cho một hệ thống y tế vốn đã èo uột: vào năm 2003, hơn 70% dân số TQ không hề có một thứ bảo hiểm sức khỏe nào cả. Kể từ đó đến nay, đã có vài cải tổ y tế, nhưng gánh nặng bệnh tật (disease burden) của TQ vẫn tiếp tục gia tăng – đe dọa hệ thống y tế quốc gia, nền kinh tế nói chung, và thậm chí cả sự ổn định của chế độ.

Thực và hư

Xuyên suốt phần lớn lịch sử TQ, y tế được coi như là một trách nhiệm cá nhân, chứ không phải là một quyền lợi. Những nỗ lực của chế độ Mao nhằm xây dựng một hệ thống y tế do nhà nước bảo trợ vì vậy đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đi ra khỏi thông lệ lịch sử. Những năm đầu của thập niên 1950 đã chứng kiến sự thành hình những kế hoạch bảo hiểm y tế cho viên chức Chính phủ, công nhân nhà nước và các phòng khám bệnh ở các cấp tỉnh và huyện. Với bước Nhảy vọt Vĩ đại (the Great Leap Forward), được khởi động vào năm 1958, nhà nước có thêm một lý do nữa để can thiệp vào khu vực y tế. Để đổi lại một nền y tế miễn phí cho mọi người, nông dân sẽ hậu thuẫn việc tập thể hóa nông nghiệp và sự bành trướng các công xã nhân dân – việc này sẽ tạo những nền móng cơ chế và tài chính cho một chế độ y tế mới mẻ. Khoảng năm 1959, TQ đã xây dựng được một hệ thống y tế gồm có 3 tầng ở các vùng nông thôn gồm có các bệnh viện cấp tỉnh, các trung tâm y tế công xã, và các phòng khám bệnh làng xã (hay đội sản xuất). Hệ thống này không những đã cung cấp các dịch vụ y tế điều trị mà còn cả y tế phòng ngừa, vốn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thực thi chiến lược nhà nước nhằm ngăn ngừa những bệnh lây nhiễm.

Sau đợt phát động Cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966 và việc thanh trừng hàng loạt các quan chức y tế cấp cao sau đó, Bộ Y tế đã bị cho ra rìa đối với việc tiến hành chính sách. Vì ít bị cản trở do tệ quan liêu, chính sách mới được phối hợp tốt đẹp hơn trước. Một con số chưa từng có gồm các nhân viên y tế được gửi về nông thôn. Một số nông dân được huấn luyện y tế không chính thức, và những "Bác sĩ chân đất" (barefoot doctors) này sau đó sẽ điều trị các bệnh thông thường và thúc đẩy các nỗ lực y tế phòng ngừa. Cái gọi là y tế hợp tác xã (một kế hoạch bảo hiểm sức khỏe lấy công xã làm cơ sở) đã lan tràn nhanh chóng. Khoảng năm 1976, cả nước có khoảng 1,8 triệu "Bác sĩ chân đất"; trên 90% đội sản xuất, hay làng xã, được chăm sóc nhờ chế độ y tế hợp tác xã; và hầu hết mọi công xã đều có một trung tâm y tế. TQ đã có nhiều Bác sĩ, y tá, và giường bệnh hơn bất cứ nước nào ở cùng mức độ phát triển kinh tế như nó. Sức khỏe của người dân TQ đã được cải thiện một cách ngoạn mục: tỷ lệ tử vong (the mortality rate) đã giảm từ 20 trên 1.000 người vào năm 1949 xuống khoảng 7 trên 1.000 người vào năm 1975. Theo các con số chính thức của TQ lẫn các nguồn thông tin quốc tế, tuổi thọ trung bình của người dân TQ đã tăng từ 35 tuổi đến 65 tuổi trong thời kỳ nói trên.

Cái chết của Mao và cuộc cải tổ kinh tế sau đó đã nhanh chóng thay đổi tình hình này. Việc hũy bỏ các công xã nhân dân để trở về với chế độ canh tác theo hộ gia đình vào đầu thập niên 1980 đã loại bỏ các quỹ phúc lợi công xã (communal welfare funds), trước đó đã là nguồn tài chính quan trọng cho hệ thống y tế nông thôn dưới thời Mao. Năm 1978, 82% các đội sản xuất toàn quốc đã được giao nhiệm vụ thực hiện công tác y tế hợp tác xã; vào năm 1983, con số này đã rơi xuống mức 11%. Con số "Bác sĩ chân đất" giảm bớt 23% trong thời gian đó. Cuộc cải tổ kinh tế ở nông thôn đã gia tăng lợi tức có thể tiêu xài (disposable income) của người nông dân khiến họ có thể phớt lờ các trạm y tế làng xã hay các trung tâm y tế quận huyện để tìm đến chữa trị tại các bệnh viện thành phố. Sự phát triển này vừa làm suy yếu dây chuyền giới thiệu người bệnh đi theo ba cấp (the three-tiered referral chain) tại các vùng nông thôn và tạo ra nhu cầu mãnh liệt đối với các dịch vụ y tế phong phú hơn và tốt đẹp hơn tại các thành thị. Sự ưu đãi của chế độ dành cho các thành thị đã trở lại như trước.

Việc phục hồi địa vị cho các nhà lãnh đạo hành chính trước đó từng bị thanh trừng trong cuộc Cách mạng Văn hóa đã đi kèm với những yêu sách cho rằng các nhóm xã hội được chọn lọc, đặc biệt là các quan chức Chính phủ, phải được hưởng sự chăm sóc y tế đầy đủ hơn các thành phần khác. Hiện tượng này đã đưa đến sự xuất hiện trở lại vào thập niên 1980 một liên minh mà trước đó Mao đã tìm cách phá vỡ vào giữa thập niên 1960, gồm có: các nhà quản trị thành phố, giới quan liêu của ngành y tế, và một số thị dân cùng chia sẻ một lợi ích chung trong một nền y tế thành thị có tính cách hạn chế. Do đó, khi các cơ chế y tế ở nông thôn bắt đầu rệu rã, thay vì có biện pháp sửa đổi, các lãnh đạo trong Bộ Y tế công khai đòi dẹp bỏ chúng đi và khuyến khích một chính sách hiện đại hóa y tế được thực hiện phần lớn trong các thành thị. Khoảng năm 2004, gần 80% chi tiêu y tế của Chính phủ được dồn vào các cơ quan y tế thành thị, mặc dù dân thành thị chỉ chiếm 42% dân số cả nước.

Sự chuyển tiếp này được kết hợp với sự thay đổi nghị trình của Chính phủ liên quan đến phát triển kinh tế. Ngành y tế công cộng được tạm gác qua một bên. Dùng phát triển kinh tế làm thước đo thành tích mới, các quan chức địa phương thi nhau theo đuổi tăng trưởng kinh tế bất chấp cả sức khỏe của dân chúng. Vì vậy, các bệnh lây nhiễm gần như đã được diệt trừ dưới thời Mao sau đó đã xuất hiện trở lại và lây lan nhanh chóng vào thập niên 1980. Chính phủ rút lui hơn nữa khỏi trách nhiệm cung cấp các dịch vụ y tế cho người dân bằng cuộc cải tổ thuế vụ năm 1994, một cuộc cải tổ cho phép Chính phủ tái tập trung quyền lực ngân sách nhưng lại phân tán trách nhiệm ngân sách hơn nữa cho các địa phương. Chi tiêu y tế của Chính phủ tính theo tỷ lệ bách phân của toàn bộ các chi phí y tế cả nước đã giảm nhanh chóng – từ 36% năm 1986 đến 16% năm 2002 – khiến cá nhân người dân TQ phải chi trả phần còn lại. Các chính quyền địa phương phải gánh vác gần như tất cả các trợ cấp nhà nước dành cho các cơ sở y tế: hơn 97% từ năm 1991 đến năm 2007, theo tài liệu công bố của Bộ Tài chính và Cục Thống kê Quốc gia TQ. Hơn nữa, chỉ một tỷ lệ bách phân nhỏ bé của ngân sách y tế của Chính phủ được tiêu ra cho công chúng: như Yin Dakui, một cựu Thứ trưởng Bộ Y tế, tiết lộ vào năm 2006, cho biết 80% ngân sách y tế của TQ được chi tiêu để lo cho sức khỏe của chỉ 8,5 triệu quan chức Chính phủ.

Sự trợ cấp của Chính phủ ngày càng suy giảm, cùng với cuộc cải tổ kinh tế theo khuynh hướng thị trường, cũng đã thay đổi hành vi của các cơ quan cung cấp dịch vụ y tế. Chúng đã trở thành các cổ máy thu lợi tức. Các bệnh viện công bắt đầu xông xáo bán các loại thuốc cho bệnh nhân và cung cấp các dịch vụ công nghệ cao để bù vào những khoản thất thu do Chính phủ cắt giảm trợ cấp và để tăng thêm lợi tức cho bệnh viện. Toàn bộ các chi tiêu y tế của người dân vì vậy đã tăng theo cấp số nhân. Và điều này đã diễn ra ở một thời điểm mà TQ chưa thực sự tạo được một mạng lưới an toàn xã hội: Cuộc thăm dò về các Dịch vụ y tế Quốc gia năm 1998 cho thấy hơn 87% dân số nông thôn và hơn 44% dân số thành thị không hề có một dạng thức bảo hiểm sức khỏe nào cả. Chi phí y tế ngày càng cao phải được trả bằng tiền túi của người dân. Vào năm 1999, phần đóng góp của tư nhân cho việc chi tiêu vào các dịch vụ y tế đã vượt quá 59% tổng số chi tiêu. Trong một số trường hợp, giá cả ngày càng tăng đã không cho phép bệnh nhân đến phòng mạch Bác sĩ. Năm 2004, Thứ trưởng Y tế Zhu Qingsheng cho biết có từ 60% đến 80% số nông dân bị bệnh nặng đã nằm chết tại nhà vì họ không có đủ tiền đi bệnh viện. Chỉ một thế hệ sau khi Mao qua đời, một bản tường trình vào năm 2000 của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá các hệ thống y tế toàn thế giới đã xếp TQ ở thứ hạng 144 trong 191 nước – mặc dù lúc đó TQ đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới.

Một người khổng lồ bệnh hoạn đang ngủ mê

Cuộc khủng hoảng bệnh SARS năm 2003 đã làm Chính phủ TQ choáng váng, nó nêu bật tầm quan trọng của việc cần phải quân bình phát triển kinh tế với các dịch vụ xã hội. Trong vòng 9 tháng vi-rút xuất hiện, một tổng số gồm 8.422 ca lây nhiễm và 916 người chết đã được báo chí loan tải khắp thế giới; ngay tại TQ mà thôi (không kể Hồng Kông và Macao), dịch bệnh này đã lây nhiễm hơn 5.327 người và giết chết 349 người. Cách quản lý vụng về lúc ban đầu của Chính phủ đối với cuộc khủng hoảng này – kể cả việc bưng bít thông tin và một thời gian bất động (inaction) – đã tạo ra nhiều lo lắng và nhiều tin đồn thổi khắp nước. Đó là một thách đố mang tính chính trị - xã hội nghiêm trọng nhất mà các nhà lãnh đạo TQ đã đối phó kể từ vụ đàn áp Thiên An Môn.

Tiếp theo sau cuộc khủng hoảng nói trên, Chính phủ đã đầu tư ào ạt vào nỗ lực chặn đứng các tình trạng y tế khẩn cấp. Khoảng năm 2008, Chính phủ đã xây dựng một hệ thống giám sát và báo cáo bệnh tật ở nhiều cấp, cho phép các bệnh viện (gồm cả các trung tâm y tế thị xã) trực tiếp báo các trường hợp được nghi là dịch bệnh cho Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa bệnh TQ (the Chinese Center for Disease Control and Prevention). Chính phủ cũng phát động một chương trình y tế hợp tác xã mới ở nông thôn, theo đó các người tham dự sẽ nhận được một phần chi trả từ Nhà nước để đổi lấy việc phải đóng một lệ phí nhỏ hàng năm (chừng 1,50 Mỹ kim năm 2003). Một đợt cải tổ mới được chính thức phát động vào năm 2006 nhắm tới mục đích cung cấp, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, những dịch vụ y tế "an toàn, hữu hiệu, tiện lợi, và vừa túi tiền" đối với mọi người dân TQ. Tháng Giêng 2009, TQ công bố một kế hoạch 3 năm nhằm bơm ít nhất 123 tỷ Mỹ kim vào khu vực y tế trước cuối năm 2011 (Con số vừa nói về sau đã được nâng lên 173 tỉ Mỹ kim). Nhờ sự cam kết vội vã từ phía Nhà nước, ngân sách y tế của Chính phủ tính theo tỷ lệ phần trăm của toàn bộ chi phí y tế cả nước đã gia tăng từ gần 16% năm 2002 lên gần 24% năm 2010. Vào cuối năm ngoái, hơn 94% dân số được báo cáo là đã hưởng một dạng thức bảo hiểm y tế nào đó, theo dữ liệu của Chính phủ. Trong thời kỳ 2009-2010, Chính phủ Trung ương cũng đầu tư hàng tỷ Mỹ kim để tăng cường các cơ chế y tế ở nông thôn và các cộng đồng khác bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng, mua thiết bị, và huấn luyện nhân viên.

Nhưng nhiều nan đề y tế vẫn tồn tại. Một số vấn đề, chẳng hạn bệnh tâm thần, chưa được đặt nặng trong nghị trình cải tổ của Chính phủ. Trong số hơn 26 triệu người TQ mang bệnh trầm cảm, chỉ có 10% nhận được một ít điều trị (Chỉ có 20.000 Bác sĩ tâm thần tại TQ, với tỉ số 1,5 vị cho mỗi 100.000 người dân – bằng 1/10 tỷ số của Mỹ). Và có những cách biệt quá xa trong vấn đề tài trợ. Chính phủ Trung ương hiện gánh vác chỉ chừng 30% ngân quỹ tài trợ y tế công cộng. Các chính quyền địa phương có trách nhiệm tài trợ phần còn lại, nhưng vì họ quá bận tâm với việc tăng trưởng GDP nên không mấy chính quyền địa phương có động lực chi tiêu cho ngành y tế. Kế hoạch do Chính phủ đề xuất nhằm cung cấp dịch vụ y tế cho mọi người dân (universal coverage) cũng không giải quyết được sự cách biệt quá lớn trong khả năng tiếp cận y tế giữa thôn quê và thành thị. Theo một mô thức dựa vào lợi tức đầu người do Chính phủ đưa ra, vào năm 2010 một nhân viên thành thị làm việc trong khu vực chính thức [có đóng thuế] có thể được trợ cấp viện phí (inpatient services) nhiều gấp 6 lần một nông dân.

Nhiều bệnh viện lớn ở thành thị đang tiếp tục phát triển nhanh chóng, và nhu cầu nhân viên tại đây ngày một gia tăng, đang tạo ra hiện tượng chảy não (brain drain) từ các bệnh viện cấp thấp hơn và từ các bệnh viện ở vùng quê. Do đó, sự thiếu hụt nhân viên y tế có trình độ chuyên môn tại các bệnh viện cấp thấp và ở vùng quê đang hủy hoại các nỗ lực của Chính phủ nhằm nâng cấp những cơ sở y tế ở vùng quê và ở các cộng đồng. Cho đến nay, Chính phủ vẫn chưa có một nỗ lực nghiêm chỉnh nào nhằm cải thiện việc điều hành các bệnh viện công, vốn chiếm đến gần 70% số bệnh viện tại TQ. Thay vì phải có sự tách biệt giữa sở hữu (ownership) và điều hành (operations) của các bệnh viện này, các quan chức ở Bộ Y tế và các đồng nhiệm ở các tỉnh thành cùng một lúc vừa là người đặt ra luật lệ, vừa là người điều tiết các hoạt động y tế, vừa là tổng quản lý tất cả các bệnh viện công [nói nôm na, vừa đá bóng vừa thổi còi, DG]. Sự kiện này không những cho phép Chính phủ tùy tiện can thiệp vào các hoạt động chuyên môn của bệnh viện, mà còn tạo khó khăn cho các viên chức đóng vai trò của những người điều tiết độc lập và có thẩm quyền trong khu vực y tế. Tình trạng thiếu hiệu năng và nạn tham nhũng do đó mà phát sinh. Là những cơ sở phục vụ công chúng, những bệnh viện công này nhận ngân sách Chính phủ, và nhân viên bệnh viện gần như có quyền làm việc cho đến tuổi nghỉ hưu (near-permanent employment). Nhưng vì Chính phủ không cung cấp đầy đủ ngân quỹ, các bệnh viện này trên danh nghĩa là những bệnh viện phi lợi nhuận (not-for-profit) đã trở thành những con quái vật làm tiền (profit-seeking monsters) được bao che bởi quyền quản trị của Chính phủ. Vì không có sự giám sát của một cơ quan điều tiết thích đáng, động lực chạy theo lợi tức của các bệnh viện đã đẩy toàn bộ chi phí y tế lên cao.

Sự kiện này phần nào giải thích lý do tại sao mặc dù giá bảo hiểm sức khỏe hiện nay là cao, nhưng quyền lợi mà người dân được hưởng vẫn còn rất thấp. Năm 2010, Chính phủ chỉ trả 120 nhân dân tệ (chưa được 19 Mỹ kim) cho mỗi người được bảo hiểm bởi chương trình y tế hợp tác xã nông thôn mới, một trợ cấp chỉ bằng 8,6% tổng số chi phí y tế một đầu người. Điều này có nghĩa là ít ra 836 triệu dân vùng quê, trên danh nghĩa là được bảo hiểm bởi chương trình này, vẫn phải trả một số tiền rất lớn khi bệnh hoạn. Chẳng hạn, ngay cả một nông dân ở một trong những vùng trù phú nhất TQ, gần Thượng Hải, phải trả khoảng 12.000 nhân dân tệ (chừng 1.900 Mỹ kim) để được giải phẫu ung thư dạ dày – tương đương một năm lương của một người trong vùng này.

Cũng nghiêm trọng không kém, TQ đã không đối phó một cách hiệu quả các yếu tố rủi ro, như hút thuốc lá, sự xuống cấp môi trường, thuốc men thiếu an toàn, và thực phẩm bị ô nhiễm. TQ đã ký Công ước khung về Kiểm soát thuốc lá năm 2003, cam kết cấm hút thuốc ở nơi làm việc và bên trong các nơi công cộng kể từ ngày 9 tháng Giêng năm 2011. Nhưng ngày bắt đầu thi hành Công ước đã trôi qua mà vẫn chưa có thay đổi quan trọng nào. Hiện nay có hơn 300 triệu người tại TQ hút thuốc – một con số tương đương toàn bộ dân số Hoa Kỳ. Ngoài ra, còn có 740 triệu người dù không hút thuốc nhưng thường xuyên ngửi khói thuốc (gồm 180 triệu trẻ em dưới 15 tuổi), so với 5 năm trước số người này đã tăng thêm 200 triệu. Trong khi đó, số thuốc lá sản xuất tại TQ đã tăng thêm 17% trong cùng giai đoạn. Các chuyên gia cho rằng các chính sách bài thuốc lá của TQ thuộc loại ít hiệu lực nhất thế giới. Mặc dù Bộ Y tế đã cấm hút thuốc bên trong các nơi công cộng (không kể sở làm) vào tháng Ba, lệnh cấm này gần như không được tôn trọng. Theo một bản báo cáo gần đây mà Yang Gonghuan, Phó Tổng giám đốc của Trung tâm Kiểm soát và Ngừa bệnh TQ, là đồng tác giả, thì lý do chính để TQ không thể tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế của mình là vì các đại diện của công nghiệp thuốc lá TQ, một cột trụ kinh tế của nhiều tỉnh, đã can thiệp vào việc soạn thảo và thi hành các chính sách kiểm soát thuốc lá.

Nạn ô nhiễm và nhiều vấn đề môi trường khác, mặc dù còn bị coi là những vấn đề phụ trên chương trình nghị sự y tế của Chính phủ, nhưng cũng đang tác hại sức khỏe dân chúng. Một cuộc nghiên cứu được tiến hành năm 2007 bởi Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Bảo vệ môi trường Nhà nước TQ (tiền thân của Bộ Bảo vệ Môi trường) cho biết rằng có 750.000 người TQ chết yểu mỗi năm, phần lớn do nạn ô nhiễm không khí tại các thành phố đông đúc. Dùng các dữ liệu về phẩm chất không khí năm 2006, một bản tường trình của Viện nghiên cứu chính sách Civic Exchange, có trụ sở tại Hồng Kông, ước tính rằng gần 10.000 tử vong hàng năm có thể là do ô nhiễm không khí tại các khu công nghiệp ở Châu thổ Châu Giang (珠江), Hồng Kông, và Macao, với khoảng 94% số tử vong nói trên đã xảy ra ở Châu thổ Sông Pearl mà thôi. Theo một báo cáo của Bộ Y tế, các hoạt động vận hành 16 triệu công ty và nhà máy tại TQ là độc hại hoặc đầy rủi ro, và khoảng 200 triệu công nhân TQ bị trực tiếp đặt vào vị trí có thể gặp rủi ro nghề nghiệp. Vì thảm họa ô nhiễm công nghiệp, đặc biệt ô nhiễm nguồn nước ở vùng quê, TQ hiện nay có đến 459 địa phương được mệnh danh là làng ung thư (cancer villages), tức những làng có số bệnh nhân ung thư cao lạ thường. Ô nhiễm môi trường còn được coi là đã gia tăng tỷ số hiếm muộn (the infertility rate) một cách đáng kể đối với tất cả các cặp vợ chồng trong lứa tuổi sinh con, từ 3% vào năm 1990 tăng lên 12,5 – 15,0% hiện nay. Theo một bản nghiên cứu dịch tễ năm 2009 do hai tổ chức phi chính phủ, Trung tâm Phát triển Phụ nữ và Trẻ em TQ và Hiệp hội Dân số TQ, hiện nay có hơn 40 triệu cặp vợ chồng ở lục địa Trung Hoa có lẽ không sinh con được.

Các vấn đề an toàn thực phẩm và thuốc men diễn ra đều khắp tại TQ. Từ năm 2006, TQ đã bị choáng váng vì một loạt vụ bê bối (scandals) liên quan đến thực phẩm và thuốc men dưới chuẩn – gồm sữa, trứng vịt, thức ăn trẻ em, và thuốc chích ngừa bị ô nhiễm. Theo một loạt các cuộc thăm dò dư luận được công bố năm 2009, các người trả lời phỏng vấn đã coi nạn tham nhũng, cải tổ y tế, và an toàn thực phẩm và thuốc men là ba quan tâm hàng đầu của họ. Mặc dù Chính phủ đã thông qua một số biện pháp nhằm thắt chặt những quy định về an toàn thực phẩm trong những năm qua, nhưng một loạt vụ bê bối – về bánh bao được nhuộm bằng hóa chất nguy hiểm, dưa hấu có hóa chất thúc lớn nhanh, thịt lợn nhiễm clenbuterol (một loại steroid được dùng để tăng thịt nạc trong lợn) – đã làm sống lại những sợ hãi gần đây. Mặc dù sự thiếu giám sát của Chính phủ chắc chắn vẫn là điều đáng khiển trách, nhưng việc thiếu lương tâm nghề nghiệp mới là một vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều.

Nói với một du khách vừa trở về từ TQ năm 1816, Napoleon đã cho rằng: "Trung Quốc là một người khổng lồ bệnh hoạn đang ngủ mê. Nhưng khi hắn thức dậy, thế giới sẽ run sợ". Câu nói ẩn dụ này đã có vọng âm một thế kỷ về sau, khi, vì bị xé nát bởi những chia rẽ nội bộ, TQ đã trở thành một miếng mồi ngon cho các cường quốc phương Tây và được mệnh danh là "người bệnh của châu Á". Cũng như "người bệnh của châu Âu", dùng để chỉ Đế chế Ottoman đang suy tàn, cụm từ này đã làm nhức nhối tim gan những nhà yêu nước Trung Hoa vào thời đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vận dụng cụm từ ô nhục này để biện minh cho cuộc cách mạng và cách thiết kế xã hội triệt để của họ. Nhưng hiện nay, TQ đang tự chứng tỏ là nó rất xứng với cái danh hiệu [không mấy tốt đẹp] ấy một lần nữa.

Nhược điểm của những đại cường?

Có khả năng một nước giàu mà nhân dân suy nhược lại là một đại cường hay không? Những nan đề y tế ngày càng chồng chất của TQ là tín hiệu chẳng lành cho sự phát triển bền vững tại quốc gia này. Một báo cáo chính thức tiên đoán rằng giữa năm 2000 và 2025, số bệnh nhân tại TQ sẽ tăng thêm gần 70%, số ca chở tới bệnh viện sẽ tăng hơn 43%, số bệnh nhân chữa trị ngoài bệnh viện hàng năm sẽ tăng hơn 37%, và toàn bộ chi phí y tế sẽ tăng hơn 50%. (Trong khi dân số TQ được dự kiến chỉ tăng thêm 15% trong giai đoạn đó). Sức khỏe tồi tệ của người dân đã trở thành một trở ngại chính cho nỗ lực giảm nghèo của Chính phủ, và nó có thể đe dọa luôn cả những thành tựu mà TQ đã đạt được từ trước đến nay. Một cuộc thăm dò được thực hiện năm 2004 bởi Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Quốc vụ Viện cho thấy rằng bệnh hoạn và thương tật là nguyên nhân hàng đầu cho tình trạng nghèo khổ tại các vùng nông thôn: gần 41% nông dân dưới mức nghèo khổ (được Chính phủ định nghĩa là lợi tức hàng năm ở mức 860 nhân dân tệ, hay 106 Mỹ kim theo thời giá lúc bấy giờ) cho biết họ đã rơi xuống dưới mức ấy sau khi họ bị bệnh hoặc bị thương tật.

Bệnh hoạn đang gây tổn thất nặng nề cho sinh hoạt kinh tế. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu kinh tế y tế (health economists) TQ đã ước tính rằng vào năm 2003, những phí tổn y khoa để trị tai biến mạch máu não mà thôi cũng đã chiếm mất hơn 3% tổng số tiền chi phí cho ngành y tế. Và theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế TQ của Đại học Bắc Kinh, tổng số thiệt hại kinh tế do việc hút thuốc lá gây ra trong năm 2005 lên tới gần 300 tỷ nhân dân tệ (khoảng 37 tỷ Mỹ kim) – một cách ngẫu nhiên đã vượt hẳn lợi tức 240 tỷ nhân dân tệ (gần 30 tỷ Mỹ kim) của công nghiệp thuốc lá. Một bản tường trình, do một số kinh tế gia và chuyên gia y tế hàng đầu của TQ xuất bản năm 2011, ước tính rằng vào năm 2005, bệnh hoạn đã làm mất 5 tỷ ngày lao động và 2.400 tỷ nhân dân tệ (296 tỷ Mỹ kim) được tính từ những thiệt hại trong sinh hoạt kinh tế – một con số tương đương với 13% GDP của TQ.

Nói một cách tổng quát hơn, vì thiếu một mạng lưới an toàn xã hội được phát triển tốt, tình trạng sức khỏe tồi tệ của người dân đã đè bẹp các nhu cầu khác ở trong nước. Khi người dân phải lo về các chi phí y tế quá cao, họ ít có khả năng tiêu xài cho những nhu cầu khác. Trong thời gian từ giữa thập niên 1990 và năm 2006, hơn 50% tổng số chi phí y tế được trả từ tiền túi của bệnh nhân, khiến các chi tiêu về thuốc men trở thành một trong những món phải tiêu mà người dân TQ lo lắng nhất. Giữa những năm 1990 và 2008, tỷ lệ chi tiêu về y tế đối với tổng số mọi chi tiêu trong gia đình đã gia tăng từ 2% lên 7% đối với thị dân và từ 5% lên 6,7% đối với nông dân. Nếu các nhu cầu khác của người tiêu thụ vẫn tiếp tục bị hạn chế vì chi tiêu y tế quá cao, sự phát triển kinh tế của TQ không có khả năng bền vững.

Hậu quả của các bệnh lây nhiễm cũng đe dọa sự phát triển kinh tế trong tương lai của TQ. Cách đây 10 năm, Nicolas Eberstad, một nhà nghiên cứu tại Viện American Enterprise Institute, phát triển một mô hình cho thấy rằng thậm chí một đợt lây nhiễm HIV/AIDS nhẹ, với tỷ lệ HIV cao điểm là 1,5 % dân số, cũng sẽ bào mòn 0.5% tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của TQ trong 25 năm sau đó. Và HIV/AIDS là một bệnh lây nhiễm có sức tàn phá tiêu hao [qua một thời gian lâu dài], trong khi sự bộc phát của một bệnh lây nhiễm cấp tính có thể phá hoại nền kinh tế TQ trong một thời gian rất ngắn. Như đã được chứng minh bằng đợt lây nhiễm bệnh SARS năm 2003, sự bộc phát của một bệnh lây nhiễm quan trọng có thể gây rối loạn nghiêm trọng cho ngành công nghiệp dịch vụ – một ngành chiếm hơn 40% sinh hoạt kinh tế TQ – khiến khu vực bán lẻ có thể suy yếu nhanh chóng, các tụ điểm giải trí bị đóng cửa, và ngành du lịch tuột dốc. Khi các nước khác đóng cửa đối với TQ, ngành ngoại thương và các sinh hoạt doanh nghiệp khác của TQ có thể sẽ suy giảm rất nhanh chóng (Trong thời gian có dịch SARS, 110 trong số 164 nước có quan hệ ngoại giao với TQ đã đặt một số hạn chế, chí ít trong việc du lịch TQ). Nếu một sự bộc phát dịch bệnh như thế làm đình trệ các dây chuyền sản xuất trong các công nghiệp chế tạo, các công ty đa quốc sẽ phải duyệt xét lại chiến lược kinh doanh của họ đối với TQ. Sự rủi ro gia tăng trong việc kinh doanh tại đó có thể làm giảm bớt đầu tư nước ngoài và các mặt hàng xuất khẩu, do đó gây thương tổn cho khu vực chế tạo của TQ, một khu vực mang lại gần nửa GDP của nước này. Tiếp theo sau cuộc khủng hoảng bệnh SARS, Bắc Kinh đã phần nào trở nên minh bạch hơn và hợp tác hơn với các nước khác. Nhưng, như cuộc khủng hoảng H1N1 năm 2009 đã cho thấy, Bắc Kinh vẫn còn đưa thông tin sai lạc hay che đậy sự thật, và những lề thói như vậy sẽ chỉ làm xấu thêm các phản ứng tiêu cực của nhiều quốc gia khác trong trường hợp xảy ra một nạn dịch tại TQ.

Đặc biệt trong những xã hội thay đổi nhanh chóng như TQ, một chế độ y tế tồi tệ có thể nuôi dưỡng động loạn xã hội. Những khó khăn vất vã do biến chuyển kinh tế mang lại đang tạo ra nhiều bức xúc tại TQ, trong khi xã hội không có đủ các cơ chế thích hợp để đối phó với những bất mãn riêng tư của người dân. Chi phí thuốc men quá cao và việc người dân không được săn sóc về y tế thường xuyên dẫn đến các tranh chấp giữa bệnh nhân và giới cung cấp dịch vụ y tế (health-care providers), và những tranh chấp này có thể dễ dàng trở nên bạo động. Hơn 73% bệnh viện tại TQ đã báo cáo các xung đột mang tính bạo động giữa bệnh nhân và nhân viên y tế vào năm 2005, và gần 77% bệnh viện đã báo cáo các trường hợp trong đó bệnh nhân không chịu xuất viện [về nhà] sau khi điều trị hay trả viện phí. Năm 2010, nhà cầm quyền thành phố Shenyang, thủ phủ của Tỉnh Liaoning [Liêu Ninh], đã phải mướn cảnh sát đến giải quyết các xung đột giữa bệnh nhân và nhân viên y tế tại 23 bệnh viện chính của thành phố.

Nói cách khác, những vấn đề y tế công cộng có ý nghĩa tiềm ẩn quan trọng đối với ổn định chính trị. Vì tính chính danh chính trị tại TQ đặt cơ sở trên thành tích của nhà cầm quyền, một nền y tế tồi tệ sẽ gián tiếp gây thương tổn cho thế đứng của chế độ bằng cách đe dọa sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nhà nước không thể phủi tay đối với các vấn đề y tế công cộng mà không gặp phải rủi ro là có thể phá vỡ khế ước ngấm ngầm giữa nó với xã hội. Mặc khác, nếu Nhà nước tỏ ra không thể cung cấp đầy đủ dịch vụ cho dân chúng, nhiều công dân có thể cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề xã hội. Dù những người này vẫn còn trung thành với Chính phủ (CP) đi nữa, thì họ sẽ mất dần lý do để hợp tác với CP khi CP cần thu thuế, phát triển đất đai, hay kiểm soát dân số. Vì các hậu quả do bệnh tật còn làm tồi tệ tình trạng nghèo khổ và các yếu tố gây bức xúc khác, những người tuyệt vọng có thể liều lĩnh dùng hành động tập thể chống lại Nhà nước. Như Charles Tilly, Theda Skocpol, và các nhà xã hội học khác đã lý giải, việc Chính phủ đột ngột rút lui các dịch vụ công cộng hay Chính phủ không đáp ứng các lợi ích tập thể đều có khả năng thúc đẩy các vụ nổi dậy.

Chính phủ TQ có thể tránh được những hiểm họa này bằng cách cho phép những người dân bị thiệt thòi thành lập các tổ chức độc lập để tranh đấu cho lợi ích y tế của họ. Việc này đã diễn ra, chẳng hạn, tại những cộng đồng nông thôn ở vùng Đông Nam Ấn Độ. Nhưng hệ thống chính trị khép kín của TQ ít khi cung ứng các kênh mang tính cơ chế (institutional channels) cho những nhóm thấp cổ bé họng có thể bày tỏ khiếu nại, và những chướng ngại này có thể khiến nhiều người dân TQ tuyệt vọng và xoay lưng lại với Chính phủ. Trong thập niên 1990, khi hệ thống y tế quốc gia trở thành vùng đất cấm hay quá đắt đỏ đối với nhiều người dân TQ, hàng triệu người đã hướng về Pháp luân công, một phong trào tâm linh bao gồm một dạng thức thể dục cổ truyền Trung Hoa được cho là có thể huy động các lực siêu nhiên nhằm đạt được sức khỏe lành mạnh. Khoảng năm 1998, có đến 70 triệu thành viên Pháp Luân Công tại TQ. Và vào tháng Tư 1999, khoảng 10.000 thành viên của giáo phái này đã tề tựu tại khu cư xá của các lãnh đạo nước để phản đối trong im lặng, sự kiện này đã châm ngòi cho một cuộc đàn áp phong trào khắp cả nước.

Ai là «dân chi phụ mẫu»? Phải chăng là ông Hồ Cẩm Đào?

Trong bản chất, cuộc khủng hoảng y tế là một cuộc khủng hoảng về việc điều hành quốc gia. Nhà nước TQ đang hỏng cuộc trắc nghiệm về việc điều hành quốc gia trong khu vực y tế nếu xét đến động lực, khả năng, và hiệu năng của Nhà nước này. Trong hệ thống độc tài, có tôn ti này, các viên chức Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm với cấp trên của họ, chứ không có trách nhiệm trước dân chúng. Bất cứ một sự cung ứng các công ích và dịch vụ xã hội nào cũng không phát xuất từ một cuộc đàm phán được cơ chế hóa giữa Chính phủ (the government) và người dân [the governed, người được cai trị] nhưng từ một sự ban phát đơn phương do bàn tay của Chính phủ: CP coi vấn đề y tế như là một việc từ thiện chứ không phải là một quyền lợi. [Lại là quan hệ xin-cho giữa Nhân dân và Chính phủ, DG]. Và khi tính chính danh của Chính phủ, cả cấp quốc gia lẫn cấp địa phương, tùy thuộc vào việc mang lại một mức tăng trưởng kinh tế liên tục, các quan chức TQ, nhất là ở các địa phương, không mấy quan tâm đến việc phát triển ngành y tế. Sự bất động của họ lại được nhiều nhóm lợi ích khuyến khích. Công nghiệp thuốc lá, chẳng hạn, đang chống lại các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Ngoài ra, các giới cung cấp dịch vụ y tế lắm lúc đã âm mưu với các bộ ngành y tế của Chính phủ để chặn đứng cuộc cải tổ các bệnh viện công.

Một vấn đề khác là Chính phủ thiếu cả khả năng hành chính liên quan chính sách y tế. Bên cạnh một hệ thống ngân sách thiếu rõ ràng, từng làm tê liệt khả năng tài trợ các dịch vụ công cộng của Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách tại TQ còn không thể theo dõi hữu hiệu hành vi của những người thi hành chính sách. Tại các nước dân chủ, luôn luôn có những nhóm công dân để chặn đứng hành vi sai trái của các viên chức chính quyền. Nhưng bao lâu mà Chính phủ TQ không chịu trao quyền cho công chúng để họ có thể theo dõi các biện pháp hành chính, thì nỗ lực của các tác nhân hành chính cấp cao sẽ còn bị thuộc cấp chặn đứng. Vấn đề này là đặc biệt đáng quan tâm trong khu vực y tế, vì Bộ Y tế là một trong những tác nhân hành chính yếu ớt nhất tại TQ. Ngân sách của nó được quyết định bởi Bộ Tài chính và Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia đầy quyền lực. Vì ngành y tế được coi là một khu vực lệ thuộc vào các nguồn lực khác, mà không sản xuất, nên để làm được việc, Bộ Y tế phải thương thuyết với các cơ quan hảnh chính trung ương khác hay yêu cầu thượng cấp can thiệp trong vấn đề mặc cả xuyên-khu vực (cross-sector bargaining). Bộ này trên danh nghĩa là cùng đẳng cấp với các chính quyền cấp tỉnh, nhưng quyền quản lý các quan chức y tế tỉnh thuộc về các chính quyền ấy. Do đó, chỉ các cơ quan phối hợp hàng ngang (the horizontal coordinating bodies) ở nhiều cấp hành chính khác nhau – tỉnh, thành phố, và quận – mới có tiếng nói quyết định trong việc thiết kế và thi hành các chính sách y tế địa phương.

Dù vậy, khả năng của Chính phủ trung ương có thể được tăng cường khi cần thiết, đặc biệt trong các thời kỳ khủng hoảng. Trong thời gian có dịch SARS, chẳng hạn, chỉ cần chưa đầy một tuần là Chính phủ có thể xây dựng một bệnh viện cực kỳ hiện đại có đủ giường cho 1.200 bệnh nhân. Nhưng vì Bắc Kinh chưa coi trọng các nhu cầu và lợi ích của người dân, nên sức mạnh hùng hậu của Nhà nước chưa biến thành hiệu năng to lớn hơn. Bắc Kinh nhanh chóng huy động các nguồn lực trong trận đại dịch H1N1 năm 2009, nhưng chính quyền này cũng dùng đến những chính sách khắc nghiệt – như cô lập những vùng rộng lớn và các biện pháp ngăn ngừa khắt khe khác – tuy vậy vẫn không chặn đứng sự lây lan nhanh chóng của vi rút H1N1 khắp TQ mà chỉ phung phí thêm những ngân quỹ đáng lẽ có thể chi tiêu để chống lại các bệnh nghiêm trọng hơn. Chính phủ TQ đã nhìn nhận vai trò mà xã hội dân sự có thể đóng trong việc ngăn ngừa bệnh tật và quản lý các hoạt động y tế, đặc biệt trong việc nâng cao ý thức về các vấn đề liên quan đến y tế, cung cấp các dịch vụ cần thiết cho các cá nhân và gia đình bị bệnh, và ủng hộ các quyền làm người của bệnh nhân. Nhưng Chính phủ vẫn tiếp tục sách nhiễu và truy tố các Luật sư bênh vực nhân quyền và lãnh đạo của những tổ chức phi chính phủ. Hai trong những chiến sĩ chống bệnh AIDS nổi tiếng nhất TQ, Wan Yanhai và Gao Yaojie, đã phải trốn khỏi nước vào năm ngoái sau khi Chính phủ tăng cường sự sách nhiễu. Các tổ chức phi chính phủ hậu thuẫn khu vực y tế của TQ vẫn còn nhỏ bé và yếu kém, một phần vì sự tranh giành các nguồn lực eo hẹp đã dẫn đến xung đột lẫn nhau, sự kiện đáng buồn này đã cho Chính phủ một cơ hội dùng thêm thủ đoạn để điều khiển hay dẹp bỏ những tổ chức này.

Tuy nhiên, Chính phủ vẫn có thể vận dụng một số biện pháp nhất định, có thể chấp nhận được về mặt chính trị, để ngăn ngừa cuộc khủng hoảng y tế hiện nay khỏi biến thành cuộc khủng hoảng chính trị. Một trong những biện pháp đó là, Chính phủ phải cấp thời tìm cách đối phó với những hậu quả to lớn do bệnh hoạn gây ra tại TQ. Để đạt mục đích này, Chính phủ phải chấp nhận một đường lối chủ động hơn nhằm phòng chống các bệnh mạn tính không lây nhiễm, kể cả bệnh tâm thần. Trong tình hình sự lão hóa dân số đang làm nghiêm trọng thêm hậu quả của các bệnh mạn tính, TQ phải từ bỏ chính sách một con khét tiếng của mình, nhất là tại các thành phố. Làm được điều này sẽ giúp TQ duy trì khả năng cạnh tranh trong tương lai, bằng cách hạ thấp tỷ lệ giữa người trong tuổi nghỉ hưu và người trong tuổi lao động. Hơn nữa, với tỷ lệ sinh đẻ (sinh suất, fertility rate) trong nước vốn đã thấp – khoảng 1,3, tức dưới mức thay thế quá xa – sự thay đổi chính sách sẽ không làm cho dân số tăng đột xuất, điều mà các nhà hoạch định chính sách TQ từ lâu đã cố tránh.

Chính phủ cũng phải có những biện pháp để hạn chế các yếu tố rủi ro (risk factors), kể cả việc hút thuốc lá, thiếu vận động thể chất, nghiện rượu, và ăn các thức ăn hại cho sức khỏe. Các chuyên gia y tế ở nhiều nơi trên thế giới đã coi sự can thiệp của Chính phủ vào những lãnh vực này là những biện pháp hữu hiệu và xứng đồng tiền nhất. Một nghiên cứu vừa được tạp chí y học The Lancet công bố cho biết rằng việc nhanh chóng thực thi Công ước Khung về Kiểm soát Thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới tại TQ – bằng cách tăng thuế thuốc lá, dán nhãn hiệu cảnh báo trên sản phẩm, cấm quảng cáo, và qui định các hạn chế về hút thước – sẽ tốn chỉ 14 xu (0,14 Mỹ kim) cho mỗi đầu người mỗi một năm nhưng sẽ mang lại những ích lợi quan trọng. Chỉ nội việc tăng cường luật lệ điều tiết công nghệ thuốc lá mà thôi cũng sẽ có những hiệu quả lan tỏa sang các lãnh vực khác vì hút thuốc là một yếu tố rủi ro đáng kể cho nhiều chứng bệnh khác nhau, bao gồm các bệnh về đường hô hấp, bệnh ung thư phổi, và bệnh tim mạch. Một sự giám sát như vậy đòi hỏi phải có cam kết lâu dài đối với việc trợ giúp các người lập chính sách và thi hành chính sách tránh khỏi ảnh hưởng của các nhóm lợi ích. Các tiêu chuẩn để thăng thưởng các viên chức chính phủ địa phương phải được thiết kế lại. Thay vì đánh giá thành tích của họ dựa vào GDP, họ phải được đánh giá theo khả năng thực thi "quyền giám sát" và thi hành trật tự công cộng để cải thiện an sinh của dân chúng trong khu vực thuộc thẩm quyền của họ. Do đó suy ra, các quan hệ ngân sách giữa Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương phải được tái cơ cấu ngõ hầu các chính quyền địa phương, đặc biệt cấp thị xã và cấp huyện, có thể nhận được các nguồn tài chính to lớn hơn nhằm thúc đẩy ngành y tế địa phương.

Một điều cũng cực kỳ quan trọng là, Chính phủ TQ phải tăng cường hệ thống y tế để có thể cung cấp hữu hiệu các dịch vụ y tế giá rẻ và các loại thuốc thiết yếu cho những ai cần đến chúng. Bằng cách gia tăng đáng kể việc cho phép người dân sử dụng nhiều chương trình bảo hiểm khác nhau, Chính phủ đã đi những bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu cung cấp y tế căn bản (primary health care) cho mọi người trước năm 2020. Một dấu hiệu tích cực gần đây là mức chi trả tối đa mà Chính phủ dành cho mỗi bệnh nhân nằm bệnh viện được nâng lên ít nhất ngang với 60% tổng số chi phí bệnh viện của cá nhân đó. Với ngân sách Nhà nước ngày càng gia tăng và đường lối quản trị quốc gia của Chính phủ ngày càng hướng về giới bình dân hơn, người ta kỳ vọng rằng giới lãnh đạo mới, sẽ được lựa chọn ở Đại hội Đảng 18 vào năm tới, sẽ đẩy mạnh xu thế này xa hơn nữa. Song nếu Chính phủ không chặn đứng sự gia tăng toàn bộ các phí tổn y tế, thì ngay cả người có bảo hiểm cũng phải vất vả lắm mới có đủ tiền dể hưởng sự chăm sóc y tế.

Để dân chúng dễ dàng tiếp cận và đủ sức chi trả các dịch vụ y tế hơn nữa, Chính phủ đã thực hiện những đầu tư hết sức to lớn vào các cơ sở y tế do Chính phủ điều hành. Nhưng các viên chức tại các bộ ngành y tế và các bệnh viện công thường lợi dụng bản chất công cộng của các cơ sở y tế do nhà nước điều hành để đòi hỏi tài trợ gần như không hạn chế từ Chính phủ. Tình trạng này gây tổn thất to lớn, cả mặt tài chính lẫn mặt xã hội, và không bền vững trong dài hạn. Tệ hơn nữa, nó không giúp chặn đứng sự cấu kết giữa Bộ Y tế (cũng như các ngành y tế địa phương) và các bệnh viện công, một yếu tố chính khiến các phí tổn y tế gia tăng không ngừng. Nguyên tắc chỉ đạo của bất cứ một cuộc cải tổ y tế nào là phải gia tăng tối đa quyền được hưởng các dịch vụ y tế cho công chúng. Điều này có nghĩa là phải định hướng lại việc tài trợ của Chính phủ từ phía cung (bệnh viện) sang phía cầu (bệnh nhân) nhằm giúp họ giảm bớt chi tiêu tiền túi, đặc biệt đối với những người không đủ tài chính để hưởng các dịch vụ y tế có chất lượng.

Đồng thời, lương Bác sĩ phải được tăng lên đến một mức có thể thu hút những bộ óc tinh anh nhất của đất nước đến với nghề này. Song lương bổng của bác sĩ phải không do Chính phủ trực tiếp chi trả; chúng phải được chi trả bởi các tổ chức độc lập thứ ba (trung gian) có chức năng đưa dịch vụ y tế trực tiếp đến bệnh nhân, chẳng hạn các tổ chức quản lý dịch vụ y tế kiểu HMO (Health Maintenance Organization, hay tổ chức bảo trì sức khỏe). Các hạn chế được áp đặt bởi một tổ chức thứ ba có trách nhiệm sẽ khuyến khích các bệnh viện công giữ chi phí thấp và cải thiện trách nhiệm giải trình. Điều này nhiên hậu sẽ đòi hỏi TQ giảm bớt sự quá lệ thuộc vào phương pháp trả viện phí ngay cho bệnh viện công (fee-for-service payment method). Nó cũng đòi hỏi các bệnh viện công phải được hưởng thêm quyền tự trị để quyết định cách tài trợ và cung cấp dịch vụ y tế. Các bệnh viện công phải được phép cải tổ việc quản lý nhân viên và các cơ cấu tổ chức của chúng để không còn phụ thuộc vào các bộ ngành y tế của Chính phủ và, thay vào đó, có thể trở thành những tác nhân độc lập theo mô hình tập đoàn kinh tế (independent corporate actors). Trong khi đó, các viên chức Bộ Y tế và đồng sự của họ ở các địa phương chỉ phải đóng vai trò soạn ra luật lệ và điều tiết các hoạt động y tế. Các nhóm xã hội dân sự, từ các tổ chức y tế phi chính phủ đến các tổ chức tôn giáo, cũng có thể đóng một vai trò xây dựng trong tiến trình này. Các nhóm này có thể giúp giảm thiểm các hậu quả nặng nề của bệnh hoạn (the disease burden) bằng cách thu thập các dữ liệu y tế, phổ biến các thông tin liên quan đến sức khỏe của người dân, báo cáo và theo dõi các vụ bùng phát dịch bệnh.

Chắc chắn những biện pháp nói trên sẽ không giải quyết các vấn đề cơ bản của việc điều hành quốc gia đang làm tê liệt hệ thống y tế của TQ. Nhưng chúng sẽ chặn đứng cuộc khủng hoảng y tế của TQ, mang lại cho người dân TQ các dịch vụ y tế tốt đẹp hơn và với giá phải chăng hơn, đồng thời giúp Đảng Cộng sản TQ duy trì quyền lực của mình. Các nhà kinh tế gọi một kết quả như vậy là sự cải thiện Pareto (một sự cải thiện chỉ có lợi mà không hề có hại cho ai); các nhà lý thuyết trò chơi gọi đó là một tình thế hai bên đều thắng lợi (a win-win situation).

YANZHONG HUANG là Nhà Nghiên cứu Thâm niên về Y tế Toàn cầu tại Hội đồng về Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations) và là Phó Giáo sư tại Trường Chính sách Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế John C. Whitehead thuộc Đại học Seton Hall.

T.N.C. dịch từ Foreign Affairs, November/December 2011 foreignaffairs.com

Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/con-benh-cua-chau.html

03 tháng 11 2011

Bắc Kinh không thể đồng hóa Tây Tạng


Bắc Kinh không thể đồng hóa Tây Tạng

Ngô Nhân Dụng

clip_image001

Google Images

Vận mệnh một quốc gia tùy thuộc nhiều vào hoàn cảnh địa lý. Nước Việt Nam được gọi là "bao lơn" từ châu Á mở ra Thái Bình Dương". Vì nằm ở một vị trí chiến lược, trên đường lưu thông chính giữa Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương và vùng Á Đông, từ thế kỷ 18 Việt Nam đã bị các nước thực dân nhòm ngó. Đến giữa thế kỷ 19 nước ta bị chiếm làm thuộc địa; rồi sang thế kỷ 20 trở thành một bãi chiến trường trong cuộc tranh hùng giữa hai khối tư bản và cộng sản. Nếu ở một vị trí hẻo lánh hơn, có lẽ dân Việt không chịu nhiều thống khổ như thế.

Tây Tạng cũng trở thành một một địa điểm chiến lược trong các cuộc tranh chấp toàn cầu từ giữa thế kỷ 20. Trong mấy thế kỷ trước đó, Tây Tạng đã bị các nước Nepal, Trung Quốc, rồi Trung Quốc và Anh tranh giành ảnh hưởng, nhưng chưa bị chiếm đóng. Giữa thế kỷ trước, Ấn Độ độc lập và thành lập quốc gia, Trung Hoa thống nhất dưới chế độ cộng sản, Tây Tạng nằm giữa hai quốc gia lớn đó, số phận giống Việt Nam, do vị trí chiến lược trên bản đồ thế giới. Mao Trạch Đông xua quân chiếm, dùng địa bàn này nhòm ngó xuống các nước bên kia Hy Mã Lạp Sơn. Những cuộc xung đột biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc kéo dài từ năm 1960 đến nay, tiểu bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ nằm phía Nam Tây Tạng Bắc Kinh còn muốn đòi làm của họ.

Tuyên bố độc lập từ năm 1912, Tây Tạng gia nhập Liên Hiệp Quốc vào năm 1949, nhưng chỉ một năm sau Tây Tạng đã trở lại số phận lệ thuộc. Giữa thế kỷ 18 nhà Mãn Thanh tập hợp năm giống dân chính (Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng), trong đó các vùng Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương (Hồi) vẫn được quyền tương đối tự trị. Chế độ Mao Trạch Đông đã thay đổi chính sách ôn hòa đó, quyết tâm đồng hóa dân Tây Tạng; vì họ Mao tự coi có sứ mạng tiếp tục truyền thống "bình thiên hạ" với vũ khí tư tưởng là chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản Trung Quốc theo Mao đi "giải phóng" các nước chung quanh, xóa bỏ nếp sống lạc hậu cũ. Các dân tộc "chưa giác ngộ" được học tập chủ nghĩa cộng sản. Hiện tượng này cũng giống như các vua đời Hán, khi sai các tướng Ban Siêu, Mã Viện chinh phạt, từ miền đồng cỏ hoang giữa Á châu cho tới các ruộng lúa nước ở Việt Nam. Mục tiêu của các vua nhà Hán là giáo hóa các giống dân "di, địch" giúp họ "giác ngộ" theo nếp sống Trung Hoa; hai ngàn năm sau Mao Trạch Đông lại tiếp tục.

Nhìn trong bối cảnh đó, chúng ta thông cảm hơn với người Tây Tạng khi họ phản ứng trước chính sách đồng hóa của Bắc Kinh.  Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào năm 1950 đã phải chấp nhận quy chế Vùng Tự trị Tây Tạng, đã tham gia vào Quốc hội cộng sản ở Bắc Kinh. Ngài có thể hy vọng Tây Tạng được đối đãi như dưới thời Mãn Thanh. Nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc khác. Họ không chỉ muốn chiếm đất nước Tây Tạng để khai thác quặng mỏ và di dân chiếm đất lập nghiệp lâu dài. Họ còn muốn "tẩy não tập thể" dân Tây Tạng; xóa bỏ một nền văn hóa hai ngàn năm thay bằng Tư tưởng Mao Chủ tịch! Họ muốn Hán hóa cùng lúc Cộng sản hóa các giống dân "chưa giác ngộ." Tình cảnh không khác gì đời Hán, đời Đường xưa kia.

Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao người Tây Tạng đã cố đề kháng tham vọng đó. Người Tây Tạng đã nhượng bộ Bắc Kinh về chính trị khi chấp nhận quy chế tự trị. Nhưng họ không thể chấp nhận một chương trình đồng hóa bằng các biện pháp hà khắc tiêu diệt văn hóa một dân tộc. Năm 1959 nhiều người nổi lên, họ bị đàn áp tàn bạo. Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn được sang Ấn Độ tị nạn, tiếp tục vận động cho quyền tự trị và độc lập văn hóa của dân tộc ngài, cho đến bây giờ.

Chính quyền Trung Quốc mới lên tiếng chỉ trích Đức Đạt Lai Lạt Ma đã "xách động" các vị tăng ni Tây Tạng tự thiêu trong tỉnh Tứ Xuyên gần đây. Nhưng chính Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần kêu gọi đồng bào mình tự kiềm chế. Ông Lobsang Sangay, Thủ tướng Tây Tạng, cũng mới kêu gọi như vậy.

Vào tháng Ba năm 2011, nhà sư trẻ Phuntsok ở Tu viện Kirti (một tài liệu viết chữ Hán là 关键字 Quan Kiện Tự), đã tự thiêu. Tới nay, đã có thêm 8 vị tăng và một ni cô theo gương, cũng ở trong vùng huyện A Bá (阿坝, Aba), tỉnh Tứ Xuyên. Từ đời Hán đã bành trướng để mở rộng đất đai Ba Thục; huyện A Bá bị xâm chiếm, nay vẫn có hai sắc tộc chính là người Tây Tạng và người Khương (羌 族).

Những tăng ni mới tự thiêu phần lớn trên dưới 20 tuổi; họ không sống trong xứ Tây Tạng mà sinh trưởng trong nước Trung Hoa. Tổ tiên họ đã thành người Trung Quốc từ cả hàng ngàn năm. Tại sao họ phải bày tỏ thái độ bằng cách tự thiêu như vậy? Chỉ có thể giải thích là những thanh niên này đã cảm thấy họ tuyệt vọng. Họ thấy không thể cải thiện cuộc sống của chính họ, của gia đình và dân tộc của họ, dưới chính sách tiêu diệt văn hóa của Cộng sản Trung Hoa. Thế giới đã chứng kiến sức mạnh của văn hóa Tây Tạng theo bước chân những người tị nạn đang lan tỏa khắp năm châu. Một truyền thống hùng mạnh như vậy không thể bị vùi dập rồi biến đi như Cộng sản Trung Quốc mơ tưởng.

Năm 2008 người dân trong xứ Tây Tạng đã nổi lên phản đối chính sách đồng hóa, ở bên ngoài cũng vận động khắp nơi, nhân dịp Thế Vận hội Bắc Kinh. Sau đó, Cộng sản Trung Quốc đã đàn áp rất tàn bạo. Không những họ bắt cóc, truy lùng, thủ tiêu người dân trong đất Tây Tạng, mà cả những ốc đảo dân Tây Tạng sống trong nước Trung Hoa. Sau khi Thế Vận hội Bắc Kinh bế mạc, chính sách đàn áp càng gia tăng Ngay tại Tu viện Kirti, vòng kiềm tỏa thắt chặt. Các vị tăng sĩ bị ép phải học chủ nghĩa cộng sản theo lối Mao Trạch Đông, học tập chủ trương Xã hội Hòa hài mà Bắc Kinh đang cổ động.

Trong Tu viện Kirti có 2.500 tu sĩ, có nhiều thanh niên vẫn theo phong tục vào chùa tu học một hai năm rồi trở về cuộc sống tại gia. Cộng sản đã đặt đồn Công an ngay gần tu viện này, cũng như các tu viện khác. Có lúc lính tráng bao vây tu viện lên tới 900 người. Họ cấm đoán dân địa phương không được mang thực phẩm tới cúng dường (trong số tín đồ có nhiều người Hán). Họ bắt nhiều tu sĩ đem đi mất, không biết là bị tù "cải tạo" hay đã bị thủ tiêu; con số bị bắt lên tới 300 người. Có những chú tiểu 12, 13 tuổi cũng bị bắt vì bị nghi ngờ đã giúp nhà sư Phuntsok chuẩn bị việc tự thiêu.

Người thứ tám sau Phuntsok là ni cô Tenzin Wangmo; cô tự thiêu ngày 18 tháng Mười năm 2011; sau đó lại thêm một nhà sư khác. Các vị tăng ni tự thiêu đều trẻ tuổi, cho thấy hành động của họ không hoàn toàn theo đúng truyền thống tự thiêu trong lịch sử Phật giáo. Ở Ấn Độ đã có những tu sĩ tự thiêu trong thế ngồi tĩnh tọa; chính các triết gia Hy Lạp, nhiều người trong đoàn quân viễn chinh của Đại đế Alexander đã kể tới sự kiện này, từ ba thế kỷ trước Công nguyên.

Phật giáo ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản đã có truyền thống các thiền sư tự quyết định ngày, giờ chết của mình. Mục đích để thể nghiệm một trình độ định lực cao sau một đời thực tập thiền quán; giúp các đệ tử chứng kiến tin tưởng hơn vào con đường tu tập. Có nhiều cách thể hiện khác nhau. Một số vị đã chọn ngồi kiết già, ngưng ăn uống nhiều ngày, cho tới lúc ngưng thở, dần dần chuyển từ sống sang chết. Hiện ở Việt Nam còn di thể của các Hòa thượng Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Khắc Trường; cũng như của các ngài Huệ Năng, Hám Sơn, bên Trung Quốc.

Một hình thức khác là tự thiêu trong lúc thiền tọa, cũng từng phổ cập trong truyền thống thiền tông ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật. Nhưng thường chỉ các vị hòa thượng đã trải qua suốt đời tu tập mới được tự thiêu. Hành động tự thiêu để thể nghiệm đức từ bi, chứng quả một định lực cao; như một hành động giáo hóa cho mọi người theo đạo được thấy mà tự tin hơn.

Khi tìm hiểu từ nguồn gốc như vậy, ta thấy các vị tăng ni Tây Tạng trẻ tuổi tự thiêu gần đây không hoàn toàn nằm trong truyền thống tâm linh Phật Giáo. Hành động của họ mang tính cách xã hội. Họ tự thiêu để bầy tỏ một thái độ chính trị chứ không phải để thể nghiệm một trình độ tu tập. Có thể nói họ đã đi xa nguồn gốc Ấn Độ và Phật Giáo; họ còn đang thực hành một truyền thống Trung Hoa. "Sát thân thành nhân" là một châm ngôn của người Trung Hoa đời xưa.  Sử sách và truyện tích Trung Hoa đã kể lại bao nhiêu  người tự sát để bày tỏ một thái độ chính trị. Những Dự Nhượng, Nhiếp Chính đời Chiến Quốc đã trở thành bất tử trong văn chương. Khi Hoàng Diệu tự ải, Nguyễn Cao tự mổ bụng vào thế kỷ 19, hay các quân nhân Nhật Bản hara kiri tập thể không chịu theo lệnh đầu hàng sau đại chiến thứ hai, họ đều theo cùng một truyền thống đó.

Những vụ tự thiêu của các tăng ni Tây Tạng trong tỉnh Tứ Xuyên đã làm cho cả thế giới xúc động. Vì những người trẻ tuổi này sống ở Trung Quốc, chấp nhận làm dân Trung Quốc. Nhiều vị không tu trong cùng một tông phái với Đức Đạt Lai Lạt Ma nhưng vẫn bày tỏ lòng kính ngưỡng. Hành động phản kháng của họ nhằm đánh thức chính quyền Bắc Kinh phải biết và hiểu nguyện vọng của dân Tây Tạng. Họ không chấp nhận để cho nền văn hóa của cha ông họ bị xóa bỏ. Đức Đạt Lai Lạt Ma là biểu tượng cao nhất của khát vọng bảo vệ văn hóa và bản sắc của dân tộc Tây Tạng. Nhiều người Tây phương đang học và tập sống theo lối Phật giáo Tây Tạng. Nhiều người Việt Nam trên thế giới cũng vậy. Một nền văn hóa tươi đẹp như thế không thể nào bị tiêu diệt.

Bao giờ chế độ cộng sản ở Trung Quốc hiểu và chấp nhận ý nghĩa của việc chín vị tăng và một ni cô Tây Tạng tự thiêu thì họ sẽ chịu đối thoại với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi nào ngài trở về Tây Tạng, nền văn hóa của người Tây Tạng được phục hồi, thì chính đóa hoa đạo lý đó sẽ tỏa hương thơm mà chính người Trung Hoa sẽ được hưởng.

N.D.D.

Nguồn: diendantheky.net


Original Page: http://boxitvn.blogspot.com/2011/11/bac-kinh-khong-ong-hoa-tay-tang.html