Bài
viết nhắm vào người Việt hải ngoại, nhưng lại khiến người trong nước như tôi phải
suy nghĩ. Vì nó vạch ra những kịch bản mà đối tác có vai trò quyết định lại ở
trong nước.
Tất nhiên, Nhà nước Việt Nam là đối tác mà tác giả phải nghĩ
đến trước nhất. Hiểm họa suy sụp đã khiến các lãnh đạo Cộng sản phải gọi những
người từng “phản bội Tổ quốc” là “Việt kiều yêu nước” với “chất xanh” đem về. Kết
quả là đã có 6 – 8 tỷ USD mỗi năm, cứu nguy cho nền kinh tế. Tiếp theo, sự ngơ
ngác khi bước vào sân chơi kinh tế thị trường quốc tế lại khiến Nhà nước ngập
ngừng tiếp nhận một ít “chất xám” ở chừng mực không suy suyển cái thòng lọng “định
hướng”. Kết quả là mới chỉ xài được vài trăm trong số vài trăm ngàn bộ óc xa xứ!
Cái họa phương Bắc hôm nay chính là “thời cơ vàng” để Nhà nước đón nhận được đầy
đủ, toàn diện, cả “chất xanh”, “chất xám” lẫn “chất hồng” (dòng máu yêu nước) của
ba triệu đứa con dù khác biệt chính kiến nhưng sẵn sàng chung sức bảo vệ Mẹ Tổ
quốc, sẵn sàng “giải quyết tình trạng đối kháng hiện thời bằng thái độ tương
nhượng” như GS Lê Xuân Khoa đề nghị. Nếu (ôi, chữ “nếu” trớ trêu) người thủ
lĩnh “có tâm, có tầm”, về mặt tâm lý chưa rơi vào trạng thái bạc nhược - sợ hết
mọi thứ, dòng Tiên Rồng sẽ ghi một trang sử mới rực rỡ: sự hội tụ trở lại giữa
một nửa của bọc trăm trứng đi xuống biển với một nửa đang trụ lại đất liền! Và
bờ cõi Việt Nam sẽ mở rộng đến năm châu bốn biển, theo chân mỗi người con Việt!
Đối tác thứ hai trong nước là những trí thức,
những người cộng sản cấp tiến, cởi mở, họ là đồng minh tự nhiên của những trí
thức yêu nước hải ngoại, ngày càng xích lại gần nhau về lý tưởng xã hội. Không
trông đợi Nhà nước “cho phép” (như một dự án gãy gánh giữa đường mà ta đã biết),
những “think tank” kết nối trong-ngoài gần đây đã tự phát hình thành, không có
chủ ý, không hề bị chi phối bởi một “lực lượng phá hoại thù địch” nào hết, và
không thể nói là không có thành công, mà mạng Bauxite Việt Nam là một điển
hình. Điều tôi muốn nói thêm với tác giả Lê Xuân Khoa: Phải chăng trong thực tế
đất nước hiện nay, chính sự kết nối này mới là tác nhân số một thúc đẩy sự chuyển
hóa của đất nước, bằng con đường “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”, từ
đó mà chuyển hóa Nhà nước theo hướng đi chung của nhân loại tiến bộ, để “non
sông nghìn thuở vững âu vàng”?
Nhân đây, xin có lời nhắn nhủ các vị có trách nhiệm: Muốn
“tranh thủ” Việt kiều, chẳng cần “còi hụ” rình rang, chỉ cần chân thành và
khiêm tốn lắng nghe những lời ngay thật của các trí giả người Việt lúc nào cũng
sẵn sàng thiện chí, còn hơn là tìm đến một ông dân biểu Hoa Kỳ để rồi bị từ chối
một cách sượng sùng! Muốn “tranh thủ” Việt kiều, trước tiên hãy làm sao “tranh
thủ” được những lời phản biện đầy tâm huyết cất lên từ sát bên tai, ngay giữa
lòng quê hương.
Hoàng Hưng
Trong bài “Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm họa
Trung Quốc?” đăng trên một số trang mạng và báo chí Việt ngữ mấy tháng trước[1],
tôi đã trình bày tổng quát về mối họa thường trực của Trung Quốc đối với Việt
Nam qua các triều đại từ thời Tần Thủy Hoàng đến ngày nay, và về vai trò thích
hợp của người Việt hải ngoại trong những nỗ lực ngăn chặn tham vọng bá quyền của
Bắc Kinh, không chỉ đối với Việt Nam mà toàn thể khu vực Đông Nam Á.
Trong bài này, tôi sẽ đề nghị một số ý kíến cần thiết cho việc
thiết lập một kế hoạch hành động của người Việt Nam ở nước ngoài, xác định
chúng ta có thể làm được gì và làm như thế nào để đóng góp có hiệu quả vào công
cuộc đối phó với mưu đồ xâm chiếm Việt Nam mà Trung Quốc dưới chế độ cộng sản
đã thật sự bắt đầu.
Ba tiền đề
Sau đây là ba nhận định then chốt được dùng làm tiền đề cho
một kế hoạch hành động toàn diện mà tôi nghĩ là thực tế và thích hợp với cộng đồng
người Việt hải ngoại trong nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc chiếm hữu Việt Nam và thống
lĩnh biển Đông (đã được nhiều người đề nghị đổi tên là biển Đông Nam Á).
1.Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc
Trong những điều kiện địa-chính trị khu vực và quan hệ quốc
tế hiện thời, hiểm họa Trung Quốc dưới chế độ cộng sản rất khác và nguy hiểm
hơn tất cả những cuộc xâm lăng của các triều đại phong kiến phương Bắc trong
hơn hai ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai nước. Khác, vì đây không phải là một
cuộc chiến tranh xâm lược cổ điển bằng lực lượng vũ trang, mà là một cuộc chinh
phục thầm lặng bằng kinh tế, chính trị và văn hóa, vừa thuyết phục vừa đe dọa,
giữa một nước cộng sản đàn anh đối với một nước cộng sản đàn em. Chiến tranh
quân sự chỉ có thể xảy ra khi tình thế thay đổi và cuộc chinh phục thầm lặng
không còn hiệu lực. Ngoài ra, mục tiêu thôn tính Việt Nam của Trung Quốc ngày
nay không chỉ có mục đích mở mang bờ cõi phía Nam mà còn để khai thác tài
nguyên trên biển, chi phối các nước trong khu vực và thực hiện tham vọng bá quyền
quốc tế. Nguy hiểm hơn, vì Trung Quốc không chỉ mạnh hơn Việt Nam gấp bội về
kinh tế và quân sự mà còn có tư thế sử dụng Việt Nam như một quân cờ để mặc cả
với các nước đồng minh của Việt Nam khiến cho nước ta khó có thể tồn tại như một
quốc gia độc lập. Về điểm này, chúng ta không nên quên rằng mới năm ngoái, một
Đô đốc của Trung Quốc đã thăm dò Đô đốc Timothy Keating, khi đó là Tư lệnh Hải
quân Mỹ ở Thái Bình Dương, về khả năng chia đôi khu vực kiểm soát Thái Bình
Dương, lấy lằn ranh là quần đảo Hawaii, nhưng bị ông Keating bác bỏ[2]. Mới
đây, trong bài “The Geography of Chinese Power” (Thế địa lý của sức mạnh Trung
Quốc) trên tạp chí Foreign Affairs, Robert Kaplan đã nhắc đến viễn tượng Ngũ
giác đài có thể rút vòng đai chiến lược Thái Bình Dương tới các nước trong khu
vực Đại Dương châu (Oceania) để “đối phó với sức mạnh chiến lược của Trung Quốc…
mà không cần phải đối đầu trực tiếp bằng quân sự”[3]. Trong viễn tượng này, Việt
Nam và hầu hết các nước ASEAN sẽ không còn nằm trong khu vực được Mỹ bảo vệ.
Với tốc độ vô địch về phát triển kinh tế tài chánh hiện nay,
Trung Quốc đang ráo riết chuẩn bị cho tham vọng trở thành siêu cường số một
trong thế kỷ XXI, thay thế vai trò của Hoa Kỳ, và thiết lập một trật tự mới, một
nền văn minh mới có ảnh hưởng toàn cầu. Chuyên gia về Trung Quốc Martin Jacques
đã thảo luận về khả năng Trung Quốc lãnh đạo thế giới chỉ trong vòng ba, bốn chục
năm nữa[4]. John và Doris Naisbitt thì ca ngợi sáng kiến mới của Trung Quốc về
một nền dân chủ quân bình theo hàng dọc (vertical democracy) từ trên đi xuống
và từ dưới đi lên, thay cho thể chế dân chủ hỗn loạn theo hàng ngang của xã hội
Tây phương[5]. Ngay tại Trung Quốc, đại tá Lưu Minh Phúc, Giám đốc Viện Nghiên
cứu xây dựng quân đội thuộc Bộ Quốc phòng Trung Quốc, vừa xuất bản cuốn Trung
Quốc mộng, nhấn mạnh rằng “Giấc mơ Trung Quốc không chỉ là giấc mơ kinh tế, giấc
mơ quân sự mà gồm cả giấc mơ văn hoá” và điểm nổi bật là “Trung Quốc phải xây dựng
một quân đội mạnh nhất thế giới và giành lấy vị trí cường quốc số một toàn cầu
từ tay Mỹ”[6]. Bước đầu tiên trong chiến lược bá quyền của Trung Quốc là thống
lĩnh vùng biển phía Nam và kiểm soát toàn thể khu vực Đông Nam Á. Mục tiêu này
chỉ có hy vọng đạt được nếu Trung Quốc có cơ hội sử dụng Việt Nam làm bàn đạp
và căn cứ chiến lược.
2. Bảo vệ chủ quyền là trách nhiệm chính thức của Nhà nước
Việt Nam.
Ba điều kiện liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của Nhà
nước trong việc bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc là: lãnh đạo phải có tài và
thật lòng yêu nước, huy động được sự đoàn kết của toàn dân và vận động được sự ủng
hộ của quốc tế. Điều kiện thứ nhất là một nghi vấn rất lớn vì giới lãnh đạo Việt
Nam cho đến nay chỉ cho thấy rằng họ bất tài và đang dựa vào Trung Quốc để bảo
vệ độc quyền thống trị của Đảng cùng những đặc quyền đặc lợi của họ. Gần đây,
do thái độ ức hiếp quá đáng của Trung Quốc và những yếu tố thuận lợi từ phía quốc
tế, lãnh đạo Việt Nam đã có vẻ muốn khẳng định chủ quyền toàn vẹn của đất nước
và gia tăng hợp tác với các nước đồng minh để đối thoại với Trung Quốc. Nhưng họ
vẫn còn rất lúng túng trong chính sách đi hàng hai, chưa dám có những quyết định
rõ rệt. Người ta có thể ngờ rằng những lời lẽ cứng rắn đối với Trung Quốc chỉ
là một xảo thuật hỏa mù nhằm xoa dịu sự bất mãn của nhân dân và gia tăng sự tin
tưởng của Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Về điều kiện thứ hai, lãnh đạo bất tài và
bất khả tín như vậy sẽ không thể huy động sự đoàn kết và các nguồn lực của toàn
dân cho đến khi họ thật sự thay đổi đường lối. Trong khi đó, do bị bưng bít
thông tin, đại đa số nhân dân không thấy được nguy cơ mất nước vào tay Trung Quốc.
Hơn nữa, chuyện toàn dân đoàn kết thì vẫn chỉ là một ước mơ do hậu quả của hai
mươi năm nội chiến và chính sách sai lầm của Nhà nước cộng sản đối với nhân dân
miền Nam sau ngày thống nhất. Hòa giải và đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được
nói đến nhưng chưa bao giờ thực hiện sau 35 năm chấm dứt chiến tranh. Riêng điều
kiện thứ ba thì Việt Nam đang có nhiều thuận lợi vì ASEAN, Hoa Kỳ và các quốc
gia dân chủ trên thế giới đều muốn ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trụng Quốc.
Vấn đề là lãnh đạo Việt Nam có đủ khả năng và dũng cảm hay không, không phải để
đối phó với Trung Quốc bằng chiến tranh, mà để cùng với cộng đồng quốc tế giải
quyết với Trung Quốc vấn đề biển Đông Nam Á và các vấn đề an ninh, hợp tác và
phát triển trong khu vực.
3. Vai trò của cộng đồng người Việt hải ngoại
Với giả định là lãnh đạo Việt Nam muốn thật lòng tìm cách
thoát ra khỏi vòng kiểm soát của Trung Quốc, vai trò thích hợp của cộng đồng
người Việt hải ngoại là giúp cho chính quyền trong nước đối phó với Trung Quốc
bằng những công trình nghiên cứu và tư vấn, và đóng góp vào công cuộc phát triển
sức mạnh của nhân dân. Ngoài ra, người Việt hải ngoại có thể vận động đắc lực
cho vấn đề quốc tế hóa biển Đông Nam Á và cho một giải pháp hòa bình bền vững
giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Những hoạt động này cần tiến hành đồng bộ và
phải được phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, nhân dân trong nước, và cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
Đến đây, câu hỏi quan trọng được đặt ra là làm thế nào có được
sự tin cậy và hợp tác giữa chính quyền và nhân dân trong nước, nhất là giữa
chính quyền và khối người Việt ở nước ngoài, khi vấn đề hòa giải và hòa hợp dân
tộc chưa được giải quyết? Hợp tác với chính quyền trong nước, dù để đối phó với
Trung Quốc, có giúp duy trì chế độ độc tài toàn trị hay không? Những câu hỏi
này cần phải được trả lời trước khi bàn đến những hoạt động thích hợp của cộng
đồng người Việt hải ngoại.
Tôi đề nghị chúng ta nên tạm ngưng thảo luận về vấn đề hòa
giải giữa Nhà nước và cộng đồng người Việt hải ngoại vì vấn đề này đã được
tranh cãi từ nhiều năm qua và vẫn còn bế tắc. Chúng ta hãy đồng ý rằng khi đất
nước lâm nguy thì các thành phần dân tộc đều cần phải bỏ qua một bên mọi niềm
thù hận hay bất đồng chính kiến để hợp lực chiến đấu cho sự vẹn toàn của lãnh
thổ và nền độc lập của dân tộc. Khi đã vắng bóng quân xâm lược hay nguy cơ đã
qua đi thì những chuyện đối nghịch cũ sẽ trở lại để được giải quyết bằng hòa giải
hay tiếp tục đối kháng. Sự kiện người Việt hải ngoại đóng góp công trình nghiên
cứu lịch sử hay tư vấn pháp lý cho chính quyền trong nước về vấn đề Hoàng Sa –
Trường Sa là một hành động hợp tác vì nguy cơ chung nhưng không phải hay chưa
phải là hành động hòa giải. Một thí dụ khác: nếu Chính phủ Việt Nam lên tiếng
yêu cầu Trung Quốc ngưng tiếp tục xây đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong
để bảo vệ nguồn nước và môi trường sinh thái của hàng triệu dân Việt Nam sinh sống
ở lưu vực dòng sông này thì việc người Việt hải ngoại gửi kiến nghị vận động
các Chính phủ và tổ chức quốc tế ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam không
có nghĩa là một hành động củng cố chế độ độc tài cộng sản. Trong khi đó những nỗ
lực dân chủ hóa Việt Nam vẫn được tiếp tục dù dưới những hình thức ôn hòa hơn.
Đây không phải là lần đầu tiên “người quốc gia” đặt vấn đề
nói chuyện với “người cộng sản”, hay ngược lại, vì quyền lợi tối thượng của đất
nước. Cựu Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc đã cho biết là sau khi
Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 19.01.1974, ông đã ba lần “đề nghị
đến gặp Bộ trưởng Ngoại giao của chính quyền Hà Nội để cùng thảo luận về những
vấn đề của đất nước” (ngày 26.02, 16.05 và 20.07.1974) nhưng “cả ba lần đó, Hà
Nội đều làm ngơ không đáp ứng tích cực”[7]. Hai trường hợp khác về đề nghị hợp
tác giữa quốc gia và cộng sản là năm 1954 và 1989. Theo lời kể lại của cố Ngoại
trưởng Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Đỗ, mấy ngày trước khi Hiệp định Genève 1954
được ký kết, ông được Trưởng phái đoàn cộng sản Phạm Văn Đồng mời gặp để cùng
tìm giải pháp hòa bình giữa người Việt Nam với nhau thay vì chịu sự áp đặt của
các cường quốc. Hai ông đã gặp nhau nhưng khi đó đã quá muộn. Cố Ngoại trưởng
Trần Văn Đỗ kể cho tôi câu chuyện này khi tôi ghé Paris trên đường đi Genève
tháng Sáu 1989 để tham dự Hội nghị quốc tế về tị nạn Đông Dương, và được Giáo
sư Vũ Quốc Thúc đưa đến thăm ông. Cố ngoại trưởng cho hay ông nhờ GS Thúc đưa
tôi đến gặp là để nhắc tôi phải tìm gặp Trưởng phái đoàn cộng sản ở Genève để
tìm một giải pháp “của người Việt Nam” cho vấn đề tị nạn Việt Nam. Dù rất ngần
ngại, cuối cùng tôi cũng yêu cầu Eric Schwartz, Giám đốc Á châu trong Hội đồng
an ninh quốc gia (NSC) khi đó đang có mặt trong phái đoàn Hoa Kỳ, thu xếp cho
tôi gặp Trưởng phái đoàn Việt Nam là Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch, nhưng lúc đó ông Thạch không chịu gặp tôi. Một năm sau, khi ông Thạch
sang New York tham dự Đại hội đồng Liên hiệp quốc thì chính ông lại mời tôi gặp
sau khi nhận được thư của Thượng Nghị sĩ Mark O. Hatfield. Vì vấn đề tị nạn Việt
Nam đã được Hội nghị quốc tế Genève 1989 giải quyết bằng Kế hoạch hành động
toàn diện (CPA), chủ đích cuộc gặp gỡ giữa nhóm đại diện của Trung tâm SEARAC
do tôi làm Chủ tịch và ông Nguyễn Cơ Thạch là vấn đề định cư cựu tù nhân cải tạo
ở Hoa Kỳ. Vấn đề này được nối kết với vấn đề POW/MIAs mà Việt Nam cần hợp tác
tích cực hơn để Chính phủ Mỹ có thể đáp ứng thuận lợi vấn đề thiết lập quan hệ
bình thường giữa hai nước [8].
Trở lại trường hợp người Việt hải ngoại giúp cho chính quyền
trong nước đối phó với Trung Quốc, ngoài lý do quyền lợi tối thượng của đất nước,
người bên ngoài còn có cơ hội tiếp cận với những người yêu nước và tiến bộ ở
trong hay ngoài Đảng Cộng sản, hóa giải được những ngộ nhận và định kiến còn tồn
tại giữa hai bên để tin cậy nhau hơn, hợp tác chặt chẽ với nhau hơn trên nhiều
lãnh vực khác nhằm cải thiện đời sống của nhân dân và gia tăng triển vọng dân chủ
hóa Việt Nam. Trong viễn tượng ấy, lãnh đạo Đảng và Nhà nước sẽ đứng trước ba lựa
chọn: một là chấp thuận sự hợp tác của trí thức ở trong và ngoài nước và chủ động
tiến trình đổi mới chính trị để thực hiện đại đoàn kết và huy động được các nguồn
lực của nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới; hai
là bác bỏ sự hợp tác của cộng đồng hải ngoại, tiếp tục đàn áp những đòi hỏi ôn
hòa về dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội, tiếp tục thực hiện một chiều khẩu
hiệu “bốn tốt” và “mười sáu chữ vàng” với Trung Quốc; ba là hạn chế và kiểm
soát sự hợp tác của người Việt hải ngoại, tiếp tục thân với Trung Quốc nhưng
cũng dựa vào những điều kiện thuận lợi quốc tế để điều đình với Trung Quốc.
Trong khi đó, chính sách áp chế nguyện vọng của nhân dân vẫn không thay đổi.
Trong hoàn cảnh hiện thời, lựa chọn thứ nhất rất ít hy vọng
trở thành hiện thực. Chính quyền có vẻ đang thi hành lựa chọn thứ ba. Trong trường
hợp này, và ngay cả trong trường hợp chính quyền lựa chọn cách thứ hai, những
đóng góp độc lập hay có phối hợp của người Việt hải ngoại với trí thức và nhân
dân trong nước vẫn cần thiết cho việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam và cho việc tìm
kiếm giải pháp hòa bình ở Biển Đông Nam Á. Hiểm họa Trung Quốc, nếu không làm
cho chính quyền thức tỉnh và thực hiện chính sách hòa giải với các thành phần
dân tộc để cứu nước thì nó cũng sẽ tạo cơ hội cho người Việt Nam ở trong và
ngoài nước đoàn kết và hợp tác với nhau trong các nỗ lực ngăn chặn nguy cơ mất
nước và giải thể chế độ độc tài toàn trị.
Kế hoạch cụ thể và toàn diện
Trong bối cảnh lịch sử và viễn tượng tương lai đó, chúng ta
cần thiết lập một kế hoạch hành động toàn diện với các đối tượng quốc nội và quốc
tế. Tôi xin đề nghị một số công tác và gợi ý cần thiết cho việc thiết lập và thực
hiện kế hoạch này:
1. Quan hệ giữa người Việt trong và ngoài nước
a. Phổ biến bằng mọi cách những thông tin chính xác tới mọi
tầng lớp nhân dân và cấp bậc trong quân đội, nhất là ở các vùng sâu vùng xa
trên toàn quốc về những lời tuyên bố ngang ngược và hành động tàn bạo của Trung
Quốc về chủ quyền biển Đông, về những lá thư và bài viết của các nhân vật có uy
tín ở trong nước tố cáo mưu đồ thôn tính Việt Nam của Trung Quốc bằng kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hóa, và về những nhượng bộ của lãnh đạo Việt Nam đối với
Trung Quốc. Cần nêu rõ những bằng chứng cho thấy trong khi những công dân yêu
nước biểu tình phản đối Trung Quốc bị trừng phạt thì bộ máy thông tin nhà nước
lại đưa ra những tin tức và hình ảnh có lợi cho Trung Quốc. Cần hỗ trợ những
đòi hỏi của nhân dân về thái độ cụ thể của chính quyền đối với Trung Quốc.
b. Thiết lập và mở rộng quan hệ với các trí thức, văn nghệ
sĩ ở trong nước, thuộc mọi lớp tuổi, có lòng yêu nước và mong muốn Việt Nam trở
thành một quốc gia giàu mạnh, dân chủ, văn minh, có vị thế xứng đáng trong cộng
đồng thế giới. Nhiều người xuất ngoại để công tác đã có cơ hội tiếp xúc với những
đối tác hay đồng nghiệp của họ trong cộng đồng hải ngoại và đã có nhiều quan hệ
tốt. Họ đã và đang có tiếng nói phản biện trước những chính sách và chương trình
của Chính phủ đi ngược với lợi ích của dân tộc mặc dù phải chịu nhiều hành động
sách nhiễu và phá phách của bộ máy công an.
c. Tiếp xúc và hợp tác với những cựu đảng viên đã ly khai và
bỏ ra nước ngoài để tranh đấu chống độc tài, và những trí thức sinh trưởng
trong lòng chế độ nhưng bất mãn với chính sách kìm kẹp của nhà nước nên cũng chọn
cuộc sống lưu vong để có điều kiện tự do nghiên cứu, sáng tác và tìm cách cải
thiện đời sống của đồng bào trong nước. Tiếng nói của những trí thức này rất có
ảnh hưởng đối với nhân dân trong nước.
d. Tiếp xúc và hợp tác với các trí thức chuyên gia xuất ngoại
trước 1975, nhiệt tình yêu nước nhưng có thiện cảm với miền Bắc trong hai cuộc
chiến chống Pháp và chống Mỹ, nay thất vọng trước những chính sách sai lầm của
nhà cầm quyền cộng sản nên đã thẳng thắn chỉ trích chế độ và thúc đẩy công cuộc
đổi mới về mọi mặt. Tuy nhiên, do bị ngộ nhận về lòng yêu nước của mình, những
trí thức này đã sống biệt lập với cộng đồng hải ngoại và chỉ sinh hoạt trong những
diễn đàn do chính họ thành lập. Trong những năm gần đây, qua sự tham dự những hội
nghị do các trường đại học hay cơ quan nghiên cứu ngoại quốc tổ chức, một số
trí thức trước và sau 1975 đã có dịp tiếp xúc thân tình, trao đổi quan điểm và
công trình nghiên cứu về những vấn đề quan trọng của đất nước.
e. Tiếp xúc và trao đổi với những sinh viên du học hay tu
nghiệp mỗi ngày một đông hơn. Hầu hết những du sinh hay nghiên cứu sinh này đã
có những hiểu biết căn bản về đời sống ở nước ngoài và đều mong muốn đất nước đổi
mới và hội nhập thành công với cộng đồng thế giới văn minh, dân chủ. Do bận việc
học hành và do những quy định của nhà nước về điều kiện du học, họ thường né
tránh những cuộc tiếp xúc với người Việt định cư ở nước ngoài vì e ngại bị lôi
cuốn vào những sinh hoạt chống cộng của cộng đồng. Nhưng trong những cuộc trao
đổi giữa họ với nhau hay với một số Giáo sư hay bạn đồng học người Việt sở tại,
họ đã chia sẻ những mối quan tâm sâu sắc trước tình trạng tham nhũng trầm trọng,
đạo đức suy đồi ở Việt Nam, và không ngần ngại biểu lộ sự tức giận đối với những
biện pháp của Chính phủ ngăn cấm dân chúng phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền
đất nước, ngăn cấm và phá hoại thông tin chính trị trên internet. Sự trao đổi
thân tình giữa người Việt hải ngoại và các du sinh sẽ xóa bỏ được nhiều ngộ nhận
của họ về cộng đồng tị nạn, chia sẻ một cách nghiêm túc những suy nghĩ và mong
ước về tương lai nước Việt. Họ sẽ là những nhân tố thay đổi xã hội Việt Nam, là
những nhịp cầu cho sự hợp tác phát triển giữa trong và ngoài nước sau này.
2. Quan hệ với chính quyền Việt Nam
Người Việt hải ngoại không cần phải yêu cầu Chính phủ Việt
Nam chấp thuận thiết lập quan hệ hợp tác giữa đôi bên, vì từ nhiều năm nay các
lãnh đạo trong nước vẫn tha thiết kêu gọi nhân tài Việt Nam ở nước ngoài đóng
góp chất xám vào công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Thực tế thì
đã có một số chuyên gia người Việt ở các nước tiền tiến trở về làm tư vấn cho
Chính phủ, giúp đỡ kỹ thuật hay đào tạo cán bộ chuyên môn. Vì chính sách sai lầm
của chính quyền, số người này cho đến nay mới có khoảng vài trăm so với tổng số
ước lượng là trên 300 nghìn nhân tài người Việt ở nước ngoài. Bây giờ chỉ cần
chính thức hóa mối quan hệ này trong việc việc đối phó với Trung Quốc để có thể
phát huy nội lực, gia tăng sự tin cậy của các thành viên khác trong khối ASEAN
và được quốc tế hỗ trợ cho những cuộc đàm phán đa phương với Trung Quốc. Tuy
nhiên, sự hợp tác này được Chính phủ Việt Nam chấp thuận đến mức độ nào thì
chưa thể biết được.
Trong những cuộc đối thoại với chính quyền, nếu có, cần xác
nhận yếu tố ổn định chính trị trong tiến trình hợp tác. Nói cụ thể và thực tế
hơn, cần giải quyết tình trạng đối kháng hiện thời bằng thái độ tương nhượng: cộng
đồng hải ngoại sẽ trì hoãn những hoạt động quyết liệt chống chính quyền, những
đòi hỏi giải thể chế độ, những cuộc vận động Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại
danh sách CPC; để đổi lại, chính quyền phải cải thiện chính sách đối với những
người tranh đấu ôn hòa cho dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo bằng việc
phóng thích những người đang bị giam giữ, nới rộng những quyền tự do căn bản,
chấm dứt việc phá hoại những trang mạng hay trang blog trên internet.
Đế cho sự đóng góp chất xám từ hải ngoại được thực tế và hiệu
quả hơn, cần phải có sự cộng tác của trí thức và chuyên gia tiến bộ ở trong nước.
Một cơ quan tư vấn theo mô hình “think tank” của Mỹ cần được thành lập với sự
tham gia của trí thức trong và ngoài nước. Thật ra, đây là một dự án đã được thử
nghiệm hơn ba năm trước bởi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt sau khi ông và nhóm chuyên
gia của ông nghiên cứu “dự án phát triển Việt Nam thế kỷ XXI (VN21)” do TS
Phùng Liên Đoàn ở Mỹ soạn thảo với sự góp ý của tôi. Sau những buổi làm việc trực
tiếp giữa đôi bên, dự án VN21 đã trở thành một dự án “think tank” mang tên là
“Trung tâm nghiên cứu phát triển bền vững”, với tỷ lệ thành phần sáng lập là 50
phần trăm trí thức ở trong nước và 50 phần trăm trí thức ở nước ngoài. Quá
trình vận động cho việc thành lập “think tank” này rất khó khăn nhưng nhờ quyết
tâm của cố Thủ tướng Kiệt, Nhà nước đã chấp thuận đề nghị của ông, nhưng chỉ
cho phép trí thức trong nước đứng chủ trương. Do đó Viện Nghiên cứu phát triển
IDS được ra đời vào tháng Mười Một năm 2007. Dù sao, đây cũng là một bước khởi
đầu cần thiết. Như chúng ta đều biết, các hoạt động của Viện IDS đã bị chính
quyền tìm cách hạn chế và kiểm soát, nhất là sau ngày ông Kiệt qua đời, thậm
chí Hội đồng quản trị của IDS đã phải ra tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết
định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng Bảy 2009 của Thủ tướng Chính phủ, với lời
cáo buộc rất dũng cảm là: Quyết định này “phản khoa học, phản tiến bộ và phản
dân chủ.”
Dĩ nhiên, tất cả những ý kiến trên đây về quan hệ hợp tác giữa
người Việt hải ngoại và chính quyền trong nước chỉ có thể thực hiện trong trường
hợp chính quyền quyết định chọn lựa theo cách thứ nhất trong ba lựa chọn đã nói
đến ở trên (tiền đề số 3: Vai trò của người Việt hải ngoại). Quan hệ hợp tác
này, nếu đạt được, sẽ không có nghĩa là cộng đồng người Việt hải ngoại giúp củng
cố chế độ độc tài; trái lại, nó mở đầu cho một tiến trình dân chủ hóa mà không
có sự đối đầu. Nói cách khác, đây là một tiến trình “diễn biến hòa bình” do
chính Nhà nước chủ động để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” vẫn được nêu cao nhưng không thấy làm. Đây là cơ hội
mà người Việt hải ngoại và nhân dân trong nước mở ra cho chính quyền nhưng cũng
là một thách thức lịch sử đối với lãnh đạo Đảng Cộng sản trước sự tồn vong của
đất nước và dân tộc Việt Nam.
3. Vận động ASEAN, Hoa Kỳ và quốc tế
Như trên đã nói, đây là trách nhiệm và thẩm quyền chính thức
của Chính phủ Việt Nam trong quan hệ với các quốc gia khác. Những cuộc vận động
của nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài, nói chung, chỉ có
tính cách hỗ trợ cho Chính phủ. Tuy nhiên, trong trường hợp đối phó với hiểm họa
Trung Quốc, cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc
vận động quốc tế mà nhân dân trong nước không có trong khi Chính phủ Việt Nam lại
chưa có chính sách rõ rệt trước hiểm họa Trung Quốc. Đặc biệt là những cuộc vận
động hành lang của công dân ngoại quốc gốc Việt Nam có thể đem lại nhiều kết quả
tích cực do khả năng thuyết phục những nhà làm chính sách ở các nước sở tại, nhất
là ở Hoa Kỳ.
Vì Trung Quốc cũng đang là mối đe dọa chung đối với các nước
ASEAN và một số quốc gia Á châu khác như Nhật Bản và Ấn Độ, những công dân ngoại
quốc gốc Á châu sẽ sẵn sàng hợp lực với người Việt hải ngoại trong các nỗ lực vận
động chính quyền ở quốc gia sở tại và ở quê hương gốc của họ. Lợi điểm chính là
họ cũng rất quan tâm về tham vọng bá quyền của Trung Quốc, về vị trí chiến lược
của Biển Đông Nam Á và nhất là không thể chấp nhận vai trò lãnh đạo thế giới của
một nước cộng sản độc tài. Riêng ở Hoa Kỳ, các cộng đồng người Mỹ gốc Á châu
thường có quan hệ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ và các tổ chức tư nhân có thế
lực ở quê hương họ. Những người lãnh đạo cộng đồng của họ trên khắp các tiểu
bang cũng có nhiều quan hệ và kinh nghiệm làm việc với Quốc hội và Chính phủ
Hoa Kỳ [9]. Ngay cả những trí thức người Mỹ gốc Hoa vì đã quen với những suy
nghĩ và hành động theo những nguyên tắc bình đẳng và dân chủ cũng có thể đứng
chung hàng ngũ với người Mỹ gốc Á trong cuộc vận động cho một giải pháp công bằng
và hòa bình trong khu vực. Như vậy, chúng ta không cô đơn mà có nhiều bạn đồng
minh rất đắc lực. Tiếng nói chung của công dân và cử tri Mỹ gốc Á qua những bản
tuyên bố, những thư kiến nghị, những buổi điều trần ở Quốc hội, những bài báo
hay tham luận ở các hội nghị chuyên đề chắc chắn sẽ được những nhà làm chính
sách của Mỹ và quốc tế lắng nghe [10].
Đối tượng quốc tế cần được tiếp cận để vận động, ngoài các
Chính phủ có mối quan tâm chung đối với Trung Quốc, là tổ chức Liên hiệp quốc,
các cơ quan nghiên cứu quốc tế về luật pháp và nhân quyền, các trường đại học
và các chuyên gia về Trung Quốc. Ngoài ra, cũng cần theo dõi và khai thác những
phản ứng chống chủ nghĩa “tân thực dân” của Trung Quốc tại Châu Phi và những
mâu thuẫn quyền lợi giữa Nga và Trung Quốc tại những nước vùng Trung Á như
Kyrzystan va Uzbekistan. Sự ủng hộ trực tiếp hay gián tiếp của các cơ quan truyền
thông như báo chí, truyền thanh và truyền hình cũng rất quan trọng và phải được
triệt để khai thác khi có cơ hội. Cộng đồng người Việt hải ngoại cần tập hợp được
những nhà nghiên cứu, những tác giả giỏi ngoại ngữ và những đại diện thông thạo
về giao tế (PR) ở thủ đô của các quốc gia cần vận động.
Kết luận
Vấn đề vai trò của người Việt hải ngoại như vừa được trình
bày, phát xuất từ một giả định là các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước thống nhất
ý chí trước nguy cơ Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam làm bàn đạp cho chiến lược
bá quyền quốc tế. Với quyết tâm ấy, Nhà nước sẽ vận dụng mọi khả năng hợp tác với
các nước ASEAN, Hoa Kỳ và các đồng minh khác để quốc tế hóa vấn đề Biển Đông
Nam Á nhằm đạt được giải pháp chung sống hòa bình, hợp tác và phát triển giữa
Trung Quốc và các nước trong khu vực. Khả năng trung lập hóa ASEAN cũng có thể
được xem xét như một giải pháp giúp cho Việt Nam và các nước trong khu vực tạo
được vị thế riêng biệt, có thể bảo vệ được chủ quyền của mỗi thành viên với các
đối tác quốc tế, tránh khỏi vai trò đu dây giữa các cường quốc [11]. Điểm quan
trọng trong giả định này là Nhà nước Việt Nam sẽ thay đổi chính sách đối nội, tạo
điều kiện cho một xã hội công dân, chấp nhận đối lập, xóa bỏ những bản án nặng
nề đối với những người tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền và công bằng xã hội.
Qua các thành tích của chế độ độc tài cộng sản và kinh nghiệm trực tiếp của
nhân dân Việt Nam từ 65 năm qua ở miền Bắc và 35 năm ở miền Nam, kịch bản tự
giác và tự chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ của nhà cầm quyền Hà Nội có thể
được xem như một mơ ước hão huyền. Nhưng trong cuộc đời đã từng xảy ra nhiều
chuyện bất ngờ, nhất là khi nguy cơ mất nước đã gần kề và sự bất mãn của dân
chúng đối với những biện pháp khắc nghiệt của chính quyền đang gia tăng cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Bởi thế giả định này vẫn cần đặt vào trong những mục tiêu của
kế hoạch. Giả định này có thể trở thành hiện thực hay không thì nhân dân trong
nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng vẫn cần hợp lực để ngăn chặn
hiểm họa Trung Quốc đồng thời đem lại tự do, dân chủ thật sự cho dân tộc.
Chính quyền trong nước cũng như cộng đồng người Việt ở nước
ngoài đang phải đối diện với những thử thách quan trọng đòi hỏi những quyết định
dũng cảm, đột phá, để biến những thử thách đó thành cơ hội hợp tác cứu nguy đất
nước và cải thiện chế độ chính trị. Hiểm họa Trung Quốc là “thời cơ vàng”[12] để
lãnh đạo Đảng và Nhà nước có thể sửa chữa sai lầm, lấy lại được lòng tin của
dân chúng và hòa giải với cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Đây cũng là cơ hội
cho những đảng viên sáng suốt, trí thức tiến bộ và nhân dân trong nước gia tăng
áp lực với những nhà làm chính sách, nhất là trong khi Đảng đang chuẩn bị Đại hội
XI vào đầu năm 2011. Ở hải ngoại, đã đến lúc các nhà lãnh đạo cộng đồng cần hội
ý với nhau để xác định một hướng đi mới và một sách lược lâu dài đối với tương
lai của đất nước, và trước mắt là thiết lập một kế hoạch thực tế có thể đóng
góp hữu hiệu vào những nỗ lực ngăn chặn cuộc chinh phục thầm lặng của Trung Quốc.
Vấn đề không phải là ai hay đoàn thể nào có thể khởi động cuộc thảo luận này vì
bất cứ một cá nhân hay tập hợp nào đảm nhận trách nhiệm đó cũng đáng được hoan
nghênh, nhất là vì đây không phải là vấn đề lãnh đạo mà là điều hợp những cuộc
thảo luận cho đến khi đạt được đồng thuận về đường lối và kế hoạch. Sau đó mới
cần bầu ra những đại diện chính thức để phụ trách thực hiện kế hoạch. Tốt hơn hết
là vai trò điều hợp nên được đảm nhiệm bởi những chuyên gia thuộc lớp tuổi
trung niên thành thạo viêc tổ chức và điều hành hội nghị. Cộng đồng người Việt
hải ngoại không thể bỏ lỡ vai trò và cơ hội lịch sử này.
© 2010 Lê Xuân Khoa
© 2010 talawas
[1]Xem talawas (Đức) 01 tháng 03, 2010; Ngày Nay (Houston,
Texas) 01/03/10; Đàn Chim Việt Online (San Jose, California) 02/03/10; NgườiViệt
(Westminster, California) 18-19-20/03/10.
[2]Admiral Timothy Keating, “Asia-Pacific Military Review”,
dẫn bởi Vũ Quang Việt trong “Towards a just and fair solution to the conflicts
in the Southeast Asian Sea”, tài liệu thuyết trình tại “Seminar on Conflicting
Claims to the South China Sea”, do Đại học Temple, Philadelphia, PA, tổ chức
ngày 25/03/2010.
[3] Robert D. Kaplan, “The Geography of Chinese Power: How
Far Can Beijing Reach on Land at at Sea”, Foreign Affairs, May/June 2010, trang
22-41.
[4] Martin Jacques, When China Rules the World, The Penguin
Press, New York, 2009.
[5]John & Doris Norbitt, China’s Megatrends: The 8
Pillars of a New Society, Publishers, New York, 2010, đặc biệt là chương 2.
[6]Nguyễn Hải Hoành, “Giấc mơ hùng vĩ của người Trung Quốc”
(phần 1), Tuần Việt Nam, 15/03/2010
[7]Vương Văn Bắc, “Nhớ lại và Suy ngẫm về vụ Hải chiến Hoàng
Sa”, Đặc san Ái Hữu Ngoại Giao, Xuân Mậu Tý, Paris, France (2008).
[8]Chi tiết về cuộc gặp gỡ này cũng như những cuộc vận động
của SEARAC (Trung tâm tác vụ Đông Nam Á) cho các chương trình định cư HO và
ROVR sẽ được trình bày đầy đủ trong cuốn sách về lịch sử tị nạn mà tôi đang viết,
tiếp theo tập I của cuốn Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch
sử, đã phát hành. Tạm thời, xin xem bản tóm lược các hoạt động của SEARAC trong
The Voice of Refugees, một tài liệu tôi viết cho The Boat People Archives của
Thư viện quốc hội, nhân dịp họ tổ chức cuộc hội thào về thuyền nhân ở
Washington, DC, ngày 2 tháng 5 năm 2009.
[9]Trong một buổi tiếp xúc gần đây của tôi với Floyd Mori,
Chủ tịch tổ chức Japanese American Citizens League (JACL) và Chủ tịch Asian
Pacific American Council, ông Mori cho tôi hay, ông sẵn sàng gặp gỡ các đại diện
cộng đồng Mỹ gốc Việt để thảo luận về nỗ lực chung này.
[10] Một thí dụ cụ thể: TS Vũ Quang Việt, sau khi thuyết
trình tại cuộc Hội thảo ở Đại học Temple (xem chú thích số ii trên đây), đã được
cơ quan U.S.-China Economic and Security Review Commission (USCC) ở Washington,
DC, mời đến tham khảo và có thể sẽ tổ chức một buổi điều trần ở Quốc hội hay một
buổi họp với các chuyên gia người Việt hải ngoại về giải pháp cho biển Đông Nam
Á. (USCC là tổ chức do Quốc hội Mỹ thành lập năm 2000 để nghiên cứu và đề nghị
về các vấn đê kinh tế và an ninh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.)
[11]Xem Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn I, Người Việt
xuất bản, Westminster, 2010, trong Phụ lục: “Việt Nam làm gì sau khi được bầu
vào Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc?” trang. 401-408, và “Nhận định về hai cuộc
vận động ngoại giao của chính quền Hà Nội”, trang 409-414.
[12]Mượn lời của tác giả Nguyễn Trung trong loạt bài “Thời
cơ vàng của Đảng ta” trên VietNamNet năm 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét