Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

30 tháng 1 2010

James Webb-Chăn Gối Với Kẻ Thù

Xin mời quí vị đọc một bài viết của một cựu Sỉ
Quan Hoa Kỳ đã tửng chiến đấu trên chiến trường Việt
Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng
Nghị Sỉ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến
Việt Nam. Thú thật, cho đến bây giờ mới thấy một
người Mỹ trí thức có đầy đủ hiêu biết về cuộc
chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng
kính trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ
để cho con cháu Hoa Kỳ được hiểu rỏ hơn cuộc chiến
Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch sử Hoa Kỳ
đã thiếu dữ kiện sống để viết.
THG
***

Sleeping With the Enemy.

By James Webb,
THG chuyển ngữ

Biết giải thích như thế nào với những đứa con của
tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói
ồn ào nhất của những người cùng thời lại nhằm mục
đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để
xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự
mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những
người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu
được tại sao lại có những kẻ với trình độ học
vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có
thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc
bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của
thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những
con vi khuẩn nầy.

Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc
bầu cử mùa thu năm ấy mang lại 76 tân dân biểu thuộc
đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những
dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên
cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ
được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon
từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng
hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa
từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.

Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào
thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau
này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ:
chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ
hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt
Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là
sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của
những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng
đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn
năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.

Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có
thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt
thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh
gục nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá
sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác
trong "Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chính" – có một lúc
được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham
vọng Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những
khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt
Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều
hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda
và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm
1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập
hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những
con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam. Những
đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào
những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa
Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng, ngăn cấm cả
đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh
Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc
Việt được khối Sô Viết yểm trợ.

Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn
chí tử xuống các nước Đông Dương không cộng sản. Tân
Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng
quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald
Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội
Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế,
và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc
chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris
1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp "viện trợ để
thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn" cho Nam
Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu
quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ
viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.

Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản
chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị
chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn
về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới
sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu
Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc
chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ
"gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ
nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có
thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải
súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này
là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức."
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có
hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu
những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra
ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân
số của quốc gia này, như sau, "chính phủ cảnh cáo
rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có
tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong
tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm
máu hiện nay."

Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ
quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ.
Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã
được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi
người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa
Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo
rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công
miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ
đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất
định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp
tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.

Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất
tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để
đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần
thiết, quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập
tức phát động ra cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được
nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống
vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau
tôi phỏng vấn các người lính miền Nam Việt Nam còn
sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải qua
hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau
khi cuộc chiến chấm dứt. Điệp khúc này không bao giờ
chấm dứt:

"Tôi không còn đạn dược." "Tôi chỉ còn 3 quả
đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày." "Tôi không còn gì
để phát cho binh sĩ của tôi." " Tôi phải tắt máy
truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được
nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện."

Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy
có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục
được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương
đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến
đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và
những người cùng quan điểm chính trị với họ, đây là
là một tháng đen tối và tuyệt vọng. Những khuôn mặt
mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc
Quân là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không
phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những
thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi
xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám tuyệt vọng vào
thân trực thăng hay phi cơ, có thể là những người chúng
ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay cả đối với
những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại
Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc
chiến.

Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn
lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả
khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng
sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách
nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng những phê
phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công
khai reo mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại học
Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng
trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử
trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân
trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ
để thực sự ăn mừng.

Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997,
nhưng thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của
những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản
chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George
McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố
với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương
trình "Crossfire" của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý
luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được
ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến
lược của mình, ứng cử viên tổng thống năm 1972,
người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình
luận, "Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến
thắng cuộc chiến đó sao?" Ông McGovern không chỉ có
một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô
cũng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều
họ muốn..

Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân
hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải
thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8
tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim
tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một
phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn
hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ
trợ cho sự chiến đấu cho nền dân chủ của miền Nam
Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider
(người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david
Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng
trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản
của mình. Đứng trước máy vi âm ông ta nói
"Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào
thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng."
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra
– dù giờ đây đã được cố tình quên đi-. Trong lúc
quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và
nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích
của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi
từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản
Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim
của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều
quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc
Schneider đọc bức điện tín này.

Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam
hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó,
nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng
sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai
mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của
thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại
chính những người đồng hương của mình một cách dữ
tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh
chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt
mạng 58000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ
trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng
ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?

Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói
về số phận của những con người biến mất sau bức màn
tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập
trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam
đã bị giam giữ, 56000 người thiệt mạng, 250000 bị giam
hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người
nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là
chế độ công an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn.
Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng
kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn
tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến
binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong
những khung cảnh có thật.

Tại sao?

Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc
loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu
thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con
người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên
đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm
thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch
sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam
như thế nào, những kẻ chế diễu chính sách của chính
quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ
thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không
muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây
thơ và lầm lẫn.

Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của
họ trong khoảng thời gian rối ren nầy lành mạnh hơn
nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những
bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của
chúng ta đồng ý với chúng ta , những người đang chiến
đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến
đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng
với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả
như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.

Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng,
những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến
khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ
thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất
cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi
68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi
quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm
những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát
hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không
cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết
quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến
29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ
52 so với 46 phần trăm.

Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người
chống đối này, mà ngày nay đang thống lĩnh giới báo chí
và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực
tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng
hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm nhập này đã gây ra
sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học,
kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở
Kent State University. Theo những kết quả thăm dò dư luận
của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập
vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến,
trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ
tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác
bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.

Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường
xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp
học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại,
vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng.
Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến
giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980,
ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công
chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý
với câu phát biểu "Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là
quân đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một
cuộc chiến mà các lãnh tụ chính trị ở Washington không
để cho họ được phép chiến thắng", 70 phần trăm
những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý
với câu phát biểu "Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân
Việt Nam thật đáng xấu hổ." Trọn 91 phần trăm những
người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói
rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần
trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong
quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu
ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam
một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả
chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên
đầu họ khi họ trở về.

Bản thăm dò này còn có cái gọi là "nhiệt kế đo cảm
giác," để đo lường thái độ của công chúng đối
với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1
đến 10.. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam
được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được
7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những
người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân
dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.

Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai
dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở
Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động
viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình
nguyện. Trong số những người tử trận:86 phần trăm là
da trắng,12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2
phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc
rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu
số và người nghèo được giao cho những công tác khó
khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự
bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản
là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh
trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ
thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về
cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng
khi sau này bị lịch sử phán xét.

Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một
cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình,
những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây
giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở
trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này,
cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ
dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.

Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ
đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một
lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình
trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm
giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt sáng lòng cho
những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản
ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm
ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn " ngọn
lửa tinh nguyên của cách mạng " trên những con tàu ọp
ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi
thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh
truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm
lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của
hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản
"giải phóng quân."

Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng
tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một
thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một
học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha
quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người
Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế
diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu
hổ khi chúng ta có một hệ thống chính quyền đã để cho
em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại
không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê
hương của em.

http://www.vietland.net/main/showthread.php?t=11289

Không có nhận xét nào: