Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

30 tháng 4 2010

Nói Với Con Yêu Nhân Ngày 30 Tháng 4

Kính tặng những Tấm Lòng tha thiết với Quê Hương và
mến yêu Màu Cờ Tổ Quốc

Con yêu của ba,

Bây giờ đã quá nửa đêm. Ba biết con đang chìm trong
giấc ngủ êm đềm của tuổi thơ. Nhưng riêng ba thì không
ngủ được. Con có biết tại sao không? Hôm nay là ngày
gần cuối tháng 4. Cũng như mọi năm, cứ mỗi lần đến
gần ngày 30 tháng 4 là trong lòng ba xao xuyến lạ thường.
Ban ngày khi làm việc, ba không chăm chú vào công việc như
bình thường, nhưng hay lơ đãng, nhớ nhung về thời dĩ
vãng. Ban đêm, dù rất mệt mỏi sau nhiều giờ làm việc
cực nhọc, nhưng ba cứ thao thức, tâm trí cứ mãi trôi
bềnh bồng về những hình ảnh đã xảy ra trong thời gian
cuối tháng 4 của một năm xa xưa, cách đây đã hơn 30 năm
trời.

Năm ấy ba chưa tròn 16 tuổi, đang còn cắp sách đến
trường, nhưng ba cũng đã đủ khôn để hiểu biết sự
việc xảy ra chung quanh mình. Ba còn nhớ rõ, tình hình
chiến sự dai dẳng, kéo dài đã nhiều năm giữa hai miền
Nam Bắc Việt Nam đột nhiên gia tăng dữ dội. Càng về
gần cuối tháng 4 thì càng có thêm nhiều tin buồn, miền
Nam cứ tiếp tục di tản, bỏ mất từ thành phố này
đến thành phố khác, bắt đầu từ các tỉnh miền Trung.
Đồng Bào không chịu ở lại để sống với kẻ xâm
lăng, ùa nhau chạy về hướng các tỉnh miền Nam để lánh
nạn, và thảm cảnh đã xảy ra: kẻ xâm lăng tràn đến,
thấy đồng bào bỏ đi thì điên tiết, đem súng đạn ra
bắn giết, đem cả súng đại pháo bắn vào đoàn người
vô tội đang di chuyển trên quốc lộ, trên bãi biển chờ
lên tàu. Da thịt đồng bào tan nát, văng vãi khắp nơi.
Xác chết không toàn thây nằm đầy không đếm xuể.
Dưới bãi biển thì máu nhuộm đỏ nước, thây trôi ngập
tràn. Ôi! Cảnh hãi hùng này tưởng chỉ tìm thấy trong
hỏa ngục, nhưng đã xảy ra cho hàng ngàn vạn đồng bào
thân yêu trên chính mảnh đất ruột thịt của họ.

Con biết không, một số người may mắn sống sót, chạy
vô được trong miền Nam, mừng rỡ tưởng mình thoát nạn.
Nhưng họ lầm. Quân xâm lăng có bao giờ chịu buông tha.
Họ tiếp tục đuổi theo, tấn công, bắn giết đồng bào
vô tội, và cuối cùng, đã cưỡng chiếm cả miền Nam vào
ngày 30 tháng 4 năm 1975, lấy mất đi hoàn toàn sự tự do
của người dân miền Nam.

Một số người ngây thơ, nghĩ rằng sau khi "giải phóng"
được miền Nam, kẻ thắng trận đã nguôi được sự hung
tàn, sẽ nghĩ chuyện xây dựng lại quê hương, và nới tay
với đồng bào ruột thịt của chính họ. Nhưng những
người này cũng lầm lớn. Họ đã lùa hàng trăm ngàn
người vào trại "cải tạo", tiêu diệt lần mòn cả một
thế hệ nơi rừng sâu nước độc. Họ dùng bao nhiêu kế
sách để đoạt lấy tài sản của dân qua các lần đổi
tiền và "cải tạo tư sản".

Nhiều người đã bỏ lại gia đình, sản nghiệp, chạy ra
nước ngoài để tìm lấy tự do. Riêng ba bị kẹt lại và
phải sống nhiều năm dưới sự cai trị của chế độ
mới. Nhưng cũng nhờ thế mà ba đã học được nhiều
điều, và thấy thêm được bộ mặt của họ. Cuối cùng
thì ba cũng đi thoát, và đến được bến bờ tự do như
một số đồng bào may mắn khác. Nhưng phần lớn đồng
bào vẫn còn ở lại để tiếp tục chịu sự thống trị
tàn ác, bóc lột không thương tiếc của người đồng
chủng. Tính đến hôm nay, ba đã sống nơi xứ sở tự do
này được gần 30 năm. Thời gian dài gần cả nửa đời
người, nhưng không khi nào lòng ba nguôi thương nhớ quê
hương mà vì hoàn cảnh, ba đành phải dứt ruột ra đi. Ba
vẫn luôn ngậm ngùi thương cho mấy mươi triệu đồng bào
bao nhiêu năm sống cảnh đọa đày trên chính quê hương
của mình. Hình ảnh bao đồng bào chết tan nát, tức
tưởi trên đường tị nạn vì súng đạn, đại pháo và
sự hận thù cuồng điên của họ vẫn còn ghi rõ trong tâm
trí của ba, và càng hiện ra mãnh liệt hơn mỗi khi ngày 30
tháng 4 trở về.

Con yêu,

Chắc bây giờ con hiểu được vì sao đã khuya mà ba không
thể ngủ. Không ngủ được thì cũng chẳng sao, ba dùng cơ
hội này để ghi tâm sự gởi cho con. Ba cũng thức để
cầu nguyện, xin ơn trên thương đến đồng bào bất hạnh
của mình.

Còn một điều nữa ba cũng muốn tâm tình với con. Đúng
ra phải nói là ba muốn xin lỗi con. Từ lúc con còn rất
nhỏ, mỗi năm ba mẹ đều dắt con đi dự Lễ Chào Cờ
ngày 30 tháng 4. Ngày đánh dấu giai đoạn đen tối của
dân tộc ta. Trước kia, khi con còn nhỏ, thì con chỉ biết
đi theo ba mẹ, chứ không thắc mắc gì. Nhưng khi con lớn
thêm được mấy tuổi và biết suy nghĩ kha khá, con
thường hỏi "con có phải đi chào cờ không?" Câu trả
lời của ba luôn luôn là "có chứ" và không cần giải
thích gì thêm. Vài năm kế đó, thì câu hỏi của con có
đổi khác "tại sao con phải đi chào cờ?". Câu hỏi của
con làm ba không vui, nên ba hay lấy quyền làm ba mà nói át
con "ba nói đi thì con cứ đi, tại sao phải thắc mắc?".
Rồi năm ngoái, câu hỏi mới của con lại làm cho ba suy
nghĩ nhiều hơn "con nghe người ta nói đi chào cờ là làm
chính trị. Con không thích chính trị, con ở nhà được
không ba?". Lúc đầu nghe con hỏi như vậy, ba thấy bối
rối và hơi bực mình, nhưng rồi ba nghĩ lại, và cố
gắng giải thích cho con hiểu sự khác biệt giữa việc
làm chính trị và việc đi dự lễ chào cờ. May quá, con
đã kiên nhẫn ngồi nghe ba giảng giải, con hiểu ra được
chào cờ là bổn phận của mọi thành phần công dân trong
một nước, không phải việc dành riêng cho những người
làm chính trị. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt của
người tỵ nạn tha hương như chúng ta, việc chào cờ còn
mang thêm ý nghĩa tưởng nhớ về quê hương, tỏ lòng
biết ơn ông bà tổ tiên và góp phần gìn giữ lá cờ mà
cha ông ta đã hy sinh bao xương máu để gầy dựng nên. Con
nói "cám ơn ba, bây giờ con hiểu rồi. Từ nay con không bao
giờ thắc mắc nữa. Con sẽ đi chào cờ với ba mẹ mỗi
năm".

Con ơi, con có biết lời nói đơn sơ đó của con đã làm
ba vui sướng lắm không? Con đã giúp ba trút bỏ được bao
nhiêu ưu tư trong lòng. Ba cũng chợt thấy ân hận sao bao
nhiêu năm qua ba đã không chịu nhẹ nhàng giải thích cho
con hiểu, mà cứ làm ngơ trước những thắc mắc của con.
Ba đã quên rằng dù con còn nhỏ, nhưng con cũng cần
được tôn trọng, cần được hướng dẫn một cách đúng
đắn để con hiểu được, và tự nguyện chấp nhận chứ
không nên bị cưỡng ép. Năm ấy, con đã làm hơn điều
đã hứa với ba. Chẳng những con đi chào cờ, con còn rủ
thêm các bạn của con đi rất đông, và cùng nhau đứng
trên sân khấu để hát quốc ca nữa. Con thật đã làm ba
vừa vui vừa hãnh diện vì con nhiều lắm đó.

Con ạ,

Điều cuối cùng ba muốn nói với con: ngày rời quê
hương, ba ra đi với hai bàn tay trắng. Trên vai ba không có
túi hành trang, trong túi ba không có một đồng bạc. Ngay
cả khi đến xứ sở này để làm lại cuộc đời mới, ba
cũng đã bắt đầu từ con số không. Nhìn bề ngoài thì ba
nghèo lắm đó con. Nhưng thực sự thì khi ra đi ba có mang
theo trong tim mình một số hành trang. Đó là một chút lòng
thành với quê hương, và màu cờ của tổ quốc con ạ.
Nhờ đó, lúc nào ba cũng thấy cuộc đời mình còn ý
nghĩa vì ba có tài sản, tài sản tinh thần đó con. Ba đã
được thừa hưởng những thứ này như di sản quý báu
nhất từ ông bà của con. Ba đã trân quý chúng như chính
mạng sống của mình. Nếu không may bị mất đi, thì cuộc
sống của ba sẽ không còn ý nghĩa nữa. Bây giờ, ba thấy
con đã khôn lớn, nên người. Ba muốn trao di sản quý báu
ấy lại cho con. Ba mong con hãy nhận lấy, hãy trân trọng,
hãy giữ gìn kỹ lưỡng, và nếu cần, hãy hy sinh tất cả
những gì con có, ngay cả chính bản thân con, để bảo vệ
những giá trị này. Thế hệ của những người đi trước
ba đã qua đi, thế hệ của ba mẹ rồi sớm muộn cũng sẽ
không còn nữa, cho nên ba thấy ngay từ bây giờ con và các
bạn trẻ của con cần phải chuẩn bị để tiếp nhận
lấy trách nhiệm của mình, tiếp nối truyền thống của
cha ông và bảo vệ Lá Cờ Vàng, biểu tượng của Tự Do
và Tình Người mà Tổ tiên và bao nhiêu người đã nằm
xuống để giữ gìn cho đến ngày hôm nay. Có như thế, dù
mai sau con có lưu lạc đến đâu, hay gặp phải hoàn cảnh
đen tối như thế nào, con cũng sẽ thấy lòng mình ấm áp,
vì hãnh diện mình là một người Việt Nam yêu Quê Hương,
yêu Giống Nòi và yêu Màu Cờ Tổ Quốc.

Ba của con,

Nguyễn Ngọc Duy - Hân

"Ai người yêu nước lại đây

Hướng về Quê Mẹ, chung tay dựng cờ"

NND

http://www.vietland.net/main/showthread.php?t=13095

Không có nhận xét nào: