Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

18 tháng 11 2009

Quan hệ Việt-Trung...

Quan Hệ Việt-Trung:
“Cái Thế Tấn Thoái Lưỡng Nan của Hà Nội.”
Sau ngày Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa trực tiếp quản lý 3 quần đảo trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa như DCVOnline đã nhanh chóng đưa tin vào tháng Mười Hai năm ngoái, bạn đọc DCV đã có dịp đọc rất nhiều bài liên quan đến Trường Sa và Hoàng Sa được viết bởi người Việt trong cũng như ngoài nước, bày tỏ quan điểm hay để chia sẻ cùng nhau những thông tin, kinh nghiệm về vấn đề này.
Trong lúc đó, những bài nghiên cứu hoặc bình luận về vấn đề này bởi những nhà nghiên cứu ngoại quốc vẫn còn tương đối ít. Nhận thấy bài "SINO-VIETNAMESE RELATIONS, Hanoi's Catch-22 situation" của tác gỉa David Koh có nhiều nhận xét khách quan, thú vị; DCVOnline trân trọng kính mời qúy độc gỉa theo dõi bài viết này qua bản dịch của Phan Tường Vi.
Từ thế kỷ này qua thế kỷ nọ, Trung Quốc và Việt Nam vốn có một quan hệ thăng trầm đầy sóng gío. Những biến cố vừa xảy ra cho thấy rằng mối quan hệ này đang chuẩn bị bước vào một giai đoạn khó khăn khác.
Cuối năm rồi, Trung Quốc quyết định thành lập một đơn vị hành chính cấp huyện quản lý quần đảo Hoàng Sa đang còn tranh chấp, và xem nó như là một huyện hành chánh mới thuộc tỉnh Hải Nam. Sự khẳng định chủ quyền này đã gây nên một đáp ứng đầy giận dữ ở Hà Nội và hình như điều này đã xác nhận một nỗi hoài nghi có từ ngàn đời trong lòng người Việt Nam về cái gọi là “lớn mạnh trong hòa bình” của Trung Quốc.
Vào hai ngày 9 và 16 tháng Mười Hai năm rồi, một nhóm đông người Việt Nam đã tụ tập trước Tòa Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội và Lãnh Sự quán Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối hành động trên của Trung Quốc. Theo những người phản đối, chủ yếu là người trẻ - sinh viên, nghệ sĩ và một vài nhà bất đồng chính kiến – thì sự chống đối này là phản ứng lại những hành động xâm lăng của Trung Quốc, bao gồm chuyện bắn chết một số ngư phủ Việt Nam đầu năm ngoái. Nhiều vụ phản đối như thế đang được hoạch định.
Sự tự phát của những cuộc phản đối này làm nhiều người quan sát thời cuộc ngạc nhiên bởi sự thường thì đã từ lâu, người ta cho rằng tuổi trẻ Việt Nam giờ đây hững hờ với chuyện liên quan đến chính trị. Họ không có điều gì để nhớ về cuộc chiến trước đây, bởi họ sinh sau năm 1975. Và mặc dù cái lịch sử chống thực dân dài đằng đẵng bao gồm cả việc chống thiên triều Trung Hoa của đất nước này đã được viết lại qua sách vở, qua nghệ thuật, và trong cái ký ức chung của đất nước này, không có một cái gì có thể so sánh được với những người thực sự sống trong những kỷ nguyên đó.
Và như thế, tuồng như Trung Quốc đã vô tình đánh thức một kẻ thù ghê gớm của họ dậy. Những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống chế độ Sài Gòn đã từng được Hoa Kỳ ủng hộ và cuối cùng là Hoa Kỳ cũng được thắng căn bản là bởi vì tuổi trẻ Việt Nam đã nức lòng lao vào cuộc chiến bất chấp một điều rất thật là trình độ kỹ thuật chiến tranh của họ đã thua kém xa đối phương của đất nước họ.
Một tinh thần yêu nước tương tự có thể thấy được hôm nay qua sự hân hoan của tuổi trẻ toàn quốc khi đội tuyển thủ bóng đá quốc gia thắng được đội bạn. Như là chứng cớ, người ta chỉ cần thống kê các blogs của tuổi trẻ Việt Nam là đủ.
Một sự việc có ý nghĩa hơn nữa là hành động của Trung Quốc đã gây sự căm phẫn cho người Việt Nam sống ở hải ngoại, mà rất nhiều người trong số họ đã không có cảm tình gì với cái chế độ Hà Nội. Từ Texas cho đến California, từ Anh Quốc cho đến Úc-đại-lợi (Australia), những người Việt Nam sống ở hải ngoại đã bày tỏ sự ủng hộ của họ dành cho những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bằng cách tự tổ chức những cuộc biểu tình riêng cho họ.
Sự việc các cuộc phản đối ở Hà Nội xảy ra qua hai buổi cuối tuần (tháng 12/2007), và những sự chuẩn bị cho hai cuộc phản đối này đã được lan truyền sâu rộng trên mạng trước khi cuộc phản đối này xảy ra, đã làm như nó đã được nhà nước chính thức đồng ý cho phép.
Nhưng trong thực tế, những cuộc phản đối này đã đặt chính phủ Việt Nam trong một vị thế rất khó xử.
Trong quá khứ, chính phủ Hà Nội luôn bị người Việt hải ngoại chỉ trích, cũng như bởi những nhà bất đồng chính kiến trong nước, là quá mềm yếu với Bắc Kinh vì đã nhượng đất cho Trung Quốc qua thỏa hiệp biên giới gây nhiều tranh cãi đã được ký kết vào cuối năm 1999. Quan tâm đến những phát triển ở khối Đông Âu trước đây vào những năm cuối của thập niên 1980 và vụ phản đối ở Thiên An Môn năm 1989, chính phủ Việt Nam lo sợ rằng những cuộc phản đối hôm nay có thể biến thành một phong trào quần chúng nhắm lật đổ chế độ họ.
Những cuộc biểu tình vừa rồi đã làm khó cho Hà Nội trong việc ứng xử với Bắc Kinh. Thực tế thì cuộc thương thảo nào cũng đòi hỏi những sự thỏa hiệp, và về phương diện Trường Sa mà nói, thì sức mạnh hải quân Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam. Những cuộc phản đối trên cũng có thể làm mạnh lên cái nhóm chống Trung Quốc trong chính quyền, làm mất cân bằng cái thế chiếc lược đi dây nước đôi mà Hà Nội vốn muốn đi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Hà Nội giờ đang ở trong cái thế tấn thoái lưỡng nan. Cấm biểu tình phản đối Trung Quốc thì có cái nguy hiểm là làm cho nhà nước cộng sản trông như chẳng yêu nước tí nào, trong lúc đó Hà Nội vô tình cho phép những người biểu tình gia tăng cái không gian cho một sự tranh luận công khai, và nó cũng cho những nhà bất đồng chính kiến một cơ hội để gia tăng ảnh hưởng của họ. Thực ra, nhà bất đồng chính kiến Phạm Hồng Sơn đã nhân cơ hội này tham gia cuộc biểu tình phản đối, như một số những nhà đối lập khác. Theo một nguồn tin, tuy nhiên, sinh viên biểu tình đã yêu cầu ông Sơn và thân hữu của ông đứng xa ra nhóm họ để lực lượng an ninh ở Hà Nội không nghĩ là cả hai nhóm đang phối hợp cùng nhau.
Để duy trì một chính sách cân đối như hiện tại, trong lúc tránh bị nhìn như một chính phủ không yêu nước mình, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ phải làm hai điều sau.
Trước hết, họ phải công bố cho người dân biết tin tức về những thỏa hiệp biên giới được ký kết trước đây. Trong qúa khứ, chính phủ cộng sản Việt Nam thường ra sức giữ kín tin tức về chính sách ngoại giao cho chính họ. Như là hệ qủa, có nhiều người người trẻ than phiền là họ hầu như chẳng biết gì về chuyện những quần đảo đang tranh chấp chủ quyền hay những vùng đất nằm dọc theo biên giới được cho là mất vào tay Trung Quốc qua hiệp ước năm 1999. Chính phủ Hà Nội trước sau như một vẫn cho rằng không mất một tấc đất nào cả. Nhưng bởi vì chuyện thỏa hiệp này chưa bao giờ được đưa ra để giải thích hay thảo luận công khai cả, nên công luận sẵn sàng tin những tin tức gì liên quan đến chuyện này hiện đang có sẵn trên mạng Internet.
Bắc Kinh cũng xác nhận rằng vào tháng Chín năm 1958, chính phủ Việt Nam (Dân chủ Cộng hòa) đã gởi cho Trung Quốc một công hàm công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Chính phủ Việt Nam đã chưa bao giờ trả lời Bắc Kinh về chuyện này. Nhưng sau khi về hưu, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã một lần nói đến bản công hàm năm 1958 cho rằng công hàm này phải được hiểu trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh Lạnh hồi đó. Ngụ ý rằng chính phủ Việt Nam dạo đó không có nhiều sự chọn lựa, và bản công hàm đó được gởi ra để bảo đảm là các quần đảo đó không rơi vào tay phe tư bản. Trên căn bản anh em xã hội chủ nghĩa, Hà Nội hy vọng rằng khi hòa bình lập lại những quần đảo này sẽ được trả lại cho Việt Nam.
Điều thứ nhì Hà Nội cần phải làm là có một phản đối ngoại giao quyết liệt hơn để phản đối những hành động của Trung Quốc và được xem như những bước vững chắc để bảo vệ lãnh thổ đang còn tranh chấp.
Mới đầu năm ngoái, đã có một dự định lập một Bộ đặc trách Hàng hải để lo chính sách khai thác tài nguyên ở biển và bảo vệ chủ quyền. Nhưng cho đến nay bộ này vẫn chưa hình thành, điều này cho thấy sự chậm trễ trong chính sách hoạch định đường lối có thể gây những hậu quả quốc gia quan trọng đến dường nào.
Quyết định thành lập một đơn vị huyện hành chính để quản trị quần đảo Trường Sa vào cuối năm rồi của Trung Quốc là một bước phát triển quan trọng. Không những nó đoàn kết những người Việt quốc gia ở hải ngoại và chính phủ Việt Nam, nó cũng đã đánh thức lòng yêu nước của một thế hệ trẻ Việt Nam trước đây đã từng bị xem như thiết tha hơn với chủ nghĩa tiêu thụ và những thần tượng văn hóa Tây phương.
Cũng quan trọng không kém, tuy vậy, là cách mà nước cờ của Bắc Kinh đã làm cho những nhà lãnh đạo của chế độ cộng sản Hà Nội đâm sầm vào một nhận thức rằng là họ phải giải quyết những dị biệt của họ và cùng làm việc với nhau nếu họ muốn giải quyết những vấn đề đầy thách đố từ một Trung Quốc đang trổi dậy.
Phần còn lại của thế giới có lẽ vẫn đang phân vân không biết Trung Quốc nên được xem như là một sự hăm dọa hay là một cơ hội. Nhưng đối với người Việt Nam thì họ đã quyết định điều đó rồi, rõ như mười mươi.
Phan Tường Vi.
01/28/2008

Không có nhận xét nào: