Hôm
Thứ Sáu 25/1/2008 tại trụ sở của Giáo hội Công giáo Việt Nam tại Hà Nội
gần tòa Khâm sứ cũ của giáo hội đã xẩy ra một vụ xô xát giữa giáo dân
và công an. Nhiều người vội cho rằng Giáo hội Công giáo bỏ đường lối
đấu tranh bất bạo động và chuyển sang hình thức bạo động. Tôi không tin
lối lý luận đó là đúng.
Những
gì giáo dân đã làm trước hành động công an đánh đập một phụ nữ chân yếu
tay mềm và một luật sư chỉ muốn đem hiểu biết về luật của mình giải bày
với lực lượng công an là một hành động đúng và hoàn toàn nằm trong
nguyên tắc bất bạo động.
Đài
Tiếng nói Tự do Á châu (RFA) trong buổi phát thanh sáng Thứ Bảy
26/1/2008 giờ Việt Nam tường thuật rằng trong ngày Thứ Sáu 25/1/2008,
khoảng 3000 giáo dân thuộc nhiều giáo xứ tại các tỉnh miền Bắc, có sự
hiện diện của đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đến từ Sài Gòn và hơn 100 linh
mục đã tề tựu tại trụ sở giáo hội tại Hà Nội để mừng lễ thượng thọ 90
tuổi của đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, đồng thời cầu nguyện xin ơn trên
chuyển hóa tâm thức những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam để họ
trả lại các cơ sở tôn giáo, đặc biệt là tòa Khâm sứ tại Hà Nội mà chính
quyền cộng sản đã chiếm từ năm 1954 khi họ thiết lập chính quyền cộng
sản sau Hiệp định Geneva.
Cuộc
cầu nguyện đã diễn ra trong trật tự, hòa bình, hoàn toàn không có tính
khiêu khích lực lượng công an được huy động tới để giữ trật tự. Khi một
phụ nữ thuộc dân tộc Mường trèo qua tường để đến dâng hoa cho đức Mẹ
(trong khuôn viên đất vốn thuộc tòa Khâm sứ và nay chính quyền chiếm),
công an đã kéo đến đánh đập người phụ nữ này.
Luật
sư Lê Quốc Quân, một giáo dân tham dự buổi lễ cầu nguyện nghe tiếng la
của người phụ nữ đã trèo qua tường với mục đích giải thích cho lực
lượng công an hành động như vậy là trái pháp luật. Vào bên trong, luật
sư Quân chưa kịp nói gì anh đã bị đánh tới tấp. Nghe tiếng la của luật
sư Quân và người phụ nữ Mường, giáo dân bức xúc phá bức tường tràn vào
khu đất bị chiếm với mục đích giải thoát cho luật sư Quân và người phụ
nữ. Trước khí thế của giáo dân, lực lượng công an bỏ chạy và luật sư
Quân và người phụ nữ được giải thoát. Đoàn giáo dân không hề lợi dụng
tình hình để gây ra bất cứ một hành động khiêu khích nào khác. Ổn định
đã trở lại sau đó.
Có
thể nói đây là lần đầu tiên kể từ năm 1975, giáo dân tại Việt Nam đã
biểu thị một thái độ và một định nghĩa thế nào là đấu tranh bất bạo
động.
Bất
bạo động như một nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn giữa các thế lực
chính trị trong một nước hay tranh chấp giữa các quốc gia là khuôn mẫu
của thế giới hôm nay, và được xem như là một chân lý để giải quyết sự
khác biệt đồng thời giữ gìn được sự ổn định của thế giới.
Nguyên
tắc bất bạo động trên thế giới bắt nguồn từ cuộc tranh đấu giành độc
lập của Ấn Độ cầm đầu bởi Mohandas K. Gandhi trong thập niên 1930 kéo
dài cho đến năm 1947 khi Anh trao trả độc lập cho Ấn. Ông Gandhi chủ
trương bất hợp tác với nhà cầm quyền Anh và bất bạo động một cách tuyệt
đối, và sau khi thành công nhân dân Ấn Độ đã tôn ông lên bật thánh
(Mahatma Gandhi), và năm 2007 Liên hiệp quốc đã chọn ngày 2 tháng 10 là
ngày sinh của ông để làm ngày “bất bạo động quốc tế” (thánh Gandhi sinh
ngày 2/10/1869 và mất ngày 30/1/1948). Tuy nhiên cần hiểu ý nghĩa tại
sao thánh Gandhi chọn đấu tranh bất bạo động thì cuộc đấu tranh bất bạo
động mới có ý nghĩa.
Đế
quốc Anh cai trị Ấn Độ bằng bạo lực. Nhưng nước Anh có một cơ chế tư
pháp độc lập và họ vẫn áp dụng tại Ấn độ. Theo lời dạy của thánh Gandhi
dân bất mãn với các chính sách của chính phủ Anh có thể xuống đường
biểu tình phản đối, và khi bị cơ quan công lực người Anh (và người Ấn
làm việc cho người Anh) dùng bạo lực dân chúng không được chống cự
trong bất cứ trường hợp nào, để cho lính Anh và lính Ấn dùng vũ lực
đánh đập thỏa thích. Các vụ đàn áp này sẽ được các luật sư đấu tranh
kiện ra tòa và – đây là điểm chính yếu – tòa án Anh có đủ quyền tư pháp
độc lập để xử một cách công minh và những người thuộc cơ quan an ninh
đã dùng bạo lực ngoài pháp luật sẽ bị trừng phạt.
Ngoài
ra báo chí của Anh hiện diện tại Ấn Độ cũng có quyền tự do loan tãi tin
tức không bị hạn chế nên những cảnh đàn áp dã man của người Anh thường
được trưng bày trước công luận tại nước Anh và trên thế giới. Cho nên
nguyên tắc bất bạo động của thánh Gandhi không có nghĩa ông ta khuyên
dân cứ để cho bạo lực ngự trị một cách tự do vô giới hạn. Ông nhắm tìm
sự công bình trong cuộc tranh đấu bằng sự chịu đựng trước để làm thức
tỉnh lương tâm thế giới, nhất là lương tâm của nhân dân Anh và những kẻ
nhúng tay vào các hành động đàn áp sẽ bị trừng phạt sau. Thánh Gandhi
tin tưởng rằng sự chịu đựng trước (công lý sẽ đến sau) trong một hệ
thống còn biết tôn trọng đạo lý và lẽ phải cuối cùng sẽ đem lại sự
thắng lợi cho nhân dân Ấn Độ . Thánh Gandhi đã có lý, cuối cùng trước
cao trào giành độc lập trên thế giới Anh đã trả tự do lại cho nhân dân
Ấn Độ.
Ngày
hôm nay nguyên tắc bất bạo động vẫn phải là một nguyên tắc đấu tranh
căn bản chống các chế độ độc tài toàn trị. Và các lực lượng đấu tranh
cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam hiện nay đều công khai tuyên bố
theo đường lối bất bạo động. Nhưng trước một chính quyền toàn trị,
không có báo chí tự do, không có một nền tư pháp độc lập, những kẻ
nhúng tay vào tội ác đàn áp nhân dân sẽ không bao giờ được xử trị thì
phải hiểu “bất bạo động” theo một nghĩa thực tế mà vẫn hợp với đạo lý
và lẽ phải chung nhất của lương tri.
Bất
bạo động cần được hiểu là người dân sẽ bày tỏ các đòi hỏi hợp lý của
mình một cách ôn hòa, trong trật tự và không dùng vũ khí. Và dù giải
quyết hay không, chính quyền phải để cho dân bày tỏ các sự bất mãn của
mình trong trật tự và ôn hòa. Nếu chính quyền vô cớ dùng bạo lực đàn
áp, và nếu người dân chịu đựng mà biết rằng “công lý đến sau” không bao
giờ tới thì người dân có quyền tự vệ bằng tay không dù bản thân phải đổ
máu. Đó là nguyên tắc “bất bạo động” trong nghĩa triệt để nhất của danh
từ bất bạo động. Bất bạo động là một phương thức đấu tranh để đạt một
kết quả nhất định cho công bình và lẽ phải chứ không phải là sự chịu
đựng thuần túy để chờ sự một sự phán xét không bao giờ tới.
Trong
bối cảnh đó phản ứng của giáo dân hôm Thứ Sáu 25/1/2008 tại Hà Nội dù
làm cho những người công an hung dữ vô cớ đánh đập một phụ nữ chân yếu
tay mềm và một luật sư tay không phải hoảng sợ bỏ chạy không phải là
một hành động dùng bạo lực chống bạo lực mà là một hành động đấu tranh
bất bạo động theo nghĩa phù hợp với lẽ đúng sai chung nhất của trời đất.
Sư
phẫn nộ của những giáo dân trước hành động tàn bạo của cơ quan an ninh
cộng sản là một phản ứng xuất phát từ sự nhận chân nhanh chóng của tập
thể đâu là lẽ phải, không ngại nguy hiểm cho bản thân và dấn thân hành
động. Người giáo dân đã không đi ra khỏi nguyên tắc bất bạo động chính
danh và xứng đáng là một thành phần của một dân tộc hào hùng bất khuất.
Phản
ứng của giáo dân hôm Thứ Sáu 25/1/2008 tại Hà Nội đánh đấu một bước
ngoặc trong cuộc đấu tranh giành lẽ phải, nhân quyền, dân chủ và tự do
cho đất nước và dân tộc, mà không vượt qua nguyên tắc đấu tranh bất bạo
động một cách chính danh.
Đó
là một tấm gương sáng cho mọi đoàn thể đấu tranh tại Việt Nam để thôi
không còn núp dưới chiêu bài “bất bạo động” hiểu theo nghĩa hẹp hòi ủy
mị để không làm gì cả dù đứng trước mọi bất công. Cuộc đấu tranh của
giáo dân sẽ làm cho khối nhân dân Việt Nam còn vô cảm như một khu rừng
toàn cây xanh biến thành một khu rừng có cành khô để bắt những ngọn lửa
lẻ loi nhóm lên bởi một số ít ỏi những nhà đấu tranh cho dân chủ và
nhân quyền ở trong nước.
Trần Bình Nam
January 26, 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét