Nguyễn Tấn Dũng Mời Chuyên Gia Kinh Tế Về Quê Hương Vá Lại Chiếc Khố Rách
“Thủ
Tướng Chính Phủ Việt Nam vừa cho công bố sự đồng ý trên nguyên tắc việc
mời các chuyên gia kinh tế quốc tế có uy tín về Việt Nam trao đổi, tư
vấn cho các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp của Việt nam”. Đó là tin
tức thời sự do Thiện Giao, phóng viên đài Á Châu Tự Do RFA (Radio Free
Asia) ghi nhận ngày 16/7/08. Và sau đây là hai vấn đề do phóng viên
Thiện Giao và Trà Mi nêu ra để thảo luận.
“Các chuyên gia Việt Kiều có thể giúp gì cho kinh tế Việt Nam?” và
“Việt Nam làm thế nào để thu hút nhân tài Việt hải ngoại?”
Người
Việt chúng ta vẫn chưa quên hai cuộc di tản lánh nạn Cộng Sản lớn nhất
lịch sử nhân loại. Năm 1954 hàng triệu người từ Bắc di tản vào Nam và
năm 1975 một lần nữa, hàng triệu người Nam Bắc cùng đào thoát lưu vong
khắp nơi trên thế giới. Trong chúng ta những ai đã từng sống với Việt
Cộng sau năm 1975 hay bị cầm tù, có lẽ chưa quên luật rừng của bọn
chúng. Bất chấp hiệp định Geneva năm 1954 và Paris năm 1973, Bắc Việt
xua quân cưỡng chiếm miền Nam tàn sát, tù đày hàng triệu người và đẩy
hàng triệu khác ra biển khơi.
Có người cho
rằng đã hơn 30 năm mà vẫn còn nhắc đi nhắc lại câu chuyện cũ rích, đúng
là kẻ thù dai! Nhưng nếu không nuôi dưỡng căm thù thì ý chí, lập trường
chống cộng có thể sẽ mai một vì thiếu động lực. Có người góp ý, nếu cứ
tiếp tục nuôi dưỡng thù hận cũng không được gì, vì một ngày nào đó sẽ
mang cái hận mất nước đó xuống lòng đất. Kẻ khác tự cho là thức thời và
khuyên: con cháu chúng ta ở Việt Nam ngày nay đang miễn cưỡng sống
trong chế độ Cộng Sản, hãy quên đi chuyện cũ mà giúp đất nước, một cách
gián tiếp giúp con cháu chúng ta. Bây giờ hãy tạm gác lại chuyện chống
cộng để bàn đến việc người Việt hải ngoại chúng ta có thể giúp gì cho
kinh tế Việt Nam.
Trong bài viết nầy chúng
tôi chú trọng vào hai phần chính. Thứ nhất gồm “Nền giáo dục và tài
nguyên trí thức”, và sự khác biệt giữa hai nền kinh tế “Tư bản và Cộng
sản”. Phần thứ hai gồm chính sách kinh tế “Ngắn và dài hạn”. Đây là
những yếu tố căn bản quyết định thịnh suy kinh tế đất nước. Trước nhất
tôi xin đề cập đến vấn đề giáo dục đại học Việt Nam.
Sơ lược tình trạng giáo dục đại học và trí thức CSVN tính đến tháng 12/07.
· 322 trường đại học và cao đẳng
· 52,000 phân khoa các loại
· 1.5 triệu sinh viên bậc cử nhân hàng năm
· 7,000 tiến Sĩ
· 463 giáo sư và 2,467 phó giáo sư
Trên
đây là thống kê do Tiến Sĩ Nguyễn Thiện Nhân Bộ trưởng Giáo Dục và Đào
Tạo cung cấp. Đây là tài nguyên đại học và là số vốn trí thức CSVN.
Tính trung bình cứ mỗi trường đại học hay cao đẳng có 10 giáo sư/phó
giáo sư và mỗi 510 sinh viên bậc cữ nhân có 1 giáo sư/phó giáo sư,
trong khi CSVN lạm phát với 7,000 tiến sĩ, một con số trí thức hàng đầu
trong các nước Á Châu.
Quan niệm rằng giáo
dục đóng vai trò then chốt trong việc giảm thiểu nghèo đói, là nền tảng
tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại lợi ích như y tế, nam nữ bình
quyền, công bình và trật tự xã hội. Hiện nay có trên 77 triệu trẻ em
trên thế giới không có điều kiện đến trường, 30% thuộc vùng Á Châu Thái
Bình Dương trong đó có Việt Nam. Khuyết điểm của chính sách giáo dục sẽ
đưa đến thiếu hụt tài nguyên, chính sách quốc gia không hữu hiệu và
quản trị yếu kém. Ngân sách dành cho giáo dục chỉ có thể vừa đủ trả
đồng lương chết đói cho thầy dạy. Trường sở, sách giáo khoa và tài liệu
giảng dạy thường không được tài trợ đầy đủ. Nhìn chung, nền kinh tế suy
sụp như hiện nay là hậu quả tất nhiên của chính sách giáo dục tồi tệ
không hữu hiệu của CSVN.
Để có khái niệm về
nền kinh tế tư bản và xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy tìm hiểu đại cương
về sự khác biệt giữa 2 nền kinh tế trước khi thảo luận đến chính sách
kinh tế CSVN.
Kinh tế tư bản
Trong
bất kỳ nền kinh tế nào, để có thể sản xuất và tiêu thụ, cũng cần nêu ra
một số vấn đề căn bản như: loại hàng hóa, số lượng cần phải sản xuất,
dịch vụ nào cần phải lập ra để phân phối trong dân chúng, và nhất là
giá cả của hàng hóa và dịch vụ đó. Đây là trách nhiệm của từng cá nhân,
chính phủ hoặc cả hai phải quyết định việc nầy.
Trong
nền kinh tế tư bản, hầu hết các quyết định do dân chúng thực hiện độc
lập. Tư bản chủ nghĩa, con người thiên về tư lợi, và sức mạnh của thị
trường được phối hợp trực tiếp từ các quyết định do dân chúng thỏa
thuận. Từ nguyên nhân đó, kinh tế tư bản thường được gọi là “kinh tế
thị trường”.
Ích lợi lớn nhất của kinh tế tự
do là việc phân phối tài nguyên và hàng hóa hữu hiệu. Nhưng cũng không
thể tránh khỏi khuyết điểm, như thị trường có thể bị hỗn loạn khi thiếu
vắng sự can thiệp của chính quyền. Kinh tế thị trường đáp ứng các nhu
cầu cá nhân và làm giàu cho một số người. Dù vậy không ai có thể phủ
nhận vai trò của chính quyền các quốc gia tư bản nơi chúng ta tạm dung,
trong việc mưu tìm phúc lợi xã hội cho dân chúng. Và đây là một ước mơ
không bao giờ có trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế cộng sản
Kinh
tế cộng sản, thường gọi là xã hội chủ nghĩa, mặt khác, những quyết định
cũng do dân chúng thực hiện nhưng thừa lệnh chính phủ, phối hợp và thi
hành các quyết định do trung ương đảng hoạch định và chỉ huy. Vì thế
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa còn được gọi là “kinh tế tập trung chỉ
huy”.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa là một lý
thuyết đã từng gây nhiều tranh luận trong việc phát triển kinh tế quốc
gia song song với phúc lợi xã hội. Theo lý thuyết, giai cấp công nhân
sẽ được đặc biệt nâng đỡ vì cho rằng họ luôn bị giới tư bản, người sở
hữu tài sản và đất đai, lợi dụng bốc lột.
Theo
lý thuyết, kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ mang lại công bình xã hội bằng
cách trao quyền sở hữu tập thể cho giai cấp công nhân, thay vì chính
phủ. Karl Max cho rằng thuyết xã hội đóng vai trò trung gian để quân
bình sự chênh lệch giữa cộng sản và tư bản. Thuyết căn bản xã hội chủ
nghĩa về sản xuất là làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu, theo mô
hình cộng sản Nga đã thực hiện từ năm 1936. Theo gót cộng sản Nga là
khối cộng Đông Âu, Trung Cộng dưới thời Mao Trạch Đông và Việt Cộng với
Hồ Chí Minh.
Về sau các quốc gia xã hội chủ
nghĩa trở thành tham nhũng, viên chức chính phủ quan liêu và nhiều
quyền hành không thể kiểm soát. Và từ đó các quốc gia cộng sản không
còn nói đến chuyện phúc lợi xã hội, công bình hay dân quyền. Thực tế
việc phân quyền hay tản quyền từ trung ương xuống dân chúng không bao
giờ được thực hiện.
Chúng ta đã tìm hiểu đại
cương về giáo dục và tài nguyên trí thức CSVN. Chúng ta cũng đã phân
biệt sự khác biệt cùng ưu khuyết điểm giữa 2 nền kinh tế tư bản và cộng
sản. Đến dây chúng tôi xin đề cập đến chính sách kinh tế CSVN.
Chính sách kinh tế ngắn hạn (Short-run)
Thực
ra CSVN không có chính sách kinh tế mà là thụ động phản ứng theo sự
thay đổi bất thường của chu kỳ kinh tế. Họ chỉ tìm cách vá víu tạm thời
thay vì mưu tìm một chính sách ổn định lâu dài có thể dự đoán được dựa
theo chu kỳ kinh tế. Muốn thực hiện điều nầy, CSVN cần phải có chuyên
viên và thống kê hoàn hảo. Hiện nay những con số thống kê CSVN nặng màu
sắc chính trị, trình diễn và thiếu trung thực, vì thế không thể dự trù
một chính sách kinh tế tương đối hữu hiệu cho quốc gia.
Vấn
đề kinh tế thật mênh mông, nhất là kinh tế quốc gia hay vĩ mô
(Macroeconomics) trong khi kiến thức của con người và thời gian có giới
hạn. Nếu phân tích chính sách kinh tế của Alexander Hamilton, Henry
Ford, Alan Greenspan và George Bush, bài học từ họ là áp dụng các
nguyên tắc căn bản kinh tế từ thế kỷ thứ XIV cho đến nay, đó là vấn đề
kinh tế quốc gia ngắn và dài hạn. Chúng ta hiện đang sống trong giai
đoạn kinh tế ngắn hạn, là một phần trong chính sách dài hạn do những
người đi trước để lại.
Công nhân Việt Nam
làm thuê cho các công ty ngoại quốc là một thí dụ cụ thể về kế hoạch
kinh tế ngắn hạn và dài hạn. Theo lý thuyết, CSVN cần phải đào tạo
chuyên viên khi các nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu thiết lập cơ sở sản
xuất tại Việt Nam. Với kinh nghiệm 10 năm làm thuê cùng với chuyên viên
đã được đào tạo, Việt Nam có thể hội đủ điều kiện để sản xuất những
hàng hóa gia dụng cần thiết phục vụ đời sống dân chúng mà không cần
phải nhập cảng từ ngoại quốc như computer, tủ và máy lạnh, lò, bếp, máy
truyền hình.
Mục đích chính sách kinh tế ngắn
hạn là tiên liệu và ổn định những biến chuyển bất thường trong tiến
trình thực hiện chính sách kinh tế dài hạn, điển hình là tình trạng suy
thoái kinh tế Việt Nam hiện nay đã đưa đến lạm phát, thất nghiệp, lãi
suất cao và tình trạng kỹ nghệ sản xuất tuột dốc trầm trọng. CSVN đã áp
dụng biện pháp nào để có thể ổn định kinh tế? CSVN áp dụng chính sách
tiền tệ (Monetary policy) Mỹ nhằm giảm số lượng tiền tệ lưu hành trong
nền kinh tế trong khi in hàng nghìn tỷ đồng VN để mua và dự trữ Mỹ kim.
Thêm vào đó số tiền ngoại quốc đầu tư trực tiếp FDI năm 2007 là 21.3 tỷ
Mỹ kim và chỉ 7 tháng đầu năm nay đã lên đến 45.3 tỷ. Riêng người Việt
hải ngoại gởi về cho thân nhân và đầu tư trong năm 2007 là 4.6 tỷ Mỹ
kim và sẽ tăng 21.7% trong năm 2008, nâng tổng số ngoại tệ gởi về Việt
Nam lên 5.6 tỷ Mỹ kim (Theo Dow Jones). Vì số lượng ngoại tệ đổ vào
Việt Nam không thể kiểm soát cho nên vấn đề lạm phát là hiển nhiên và
không thể kiềm chế. Đây là hậu quả tất nhiên của đường lối lãnh đạo độc
tài của bọn thất học chỉ biết tranh chấp quyền lực nội bộ, thanh trừng,
tham nhũng thay vì hợp tác phục vụ quyền lợi quốc gia.
Chính sách kinh tế dài hạn (Long-run)
Gồm
có kế hoạch phát triển và tăng trưởng kinh tế, chính sách nhân dụng
nhằm tạo công ăn việc làm cho dân chúng, kiềm chế lạm phát, và sau cùng
là tìm cách giảm thiểu tối đa ảnh hưởng các số nợ mà CSVN vay trong
nước và quốc tế. CSVN đã cố gắng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế 7.9% năm
2007 và 6.5% trong 6 tháng đầu năm 2008 hầu theo kịp các nước đang phát
triển trong vùng như Thái Lan 4.8%, Phi Luật Tân 5.7% và Mã Lai 4.6%.
Sự
cố gắng thái quá và thiếu chuẫn bị đã làm cho CSVN là nạn nhân của
chính mình. Dù vậy, tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam rất lý tưởng với
5.3% theo thống kê và nếu đây là con số chính xác, Việt Nam sẽ là quốc
gia no cơm ấm áo hàng đầu trong khối Cộng Sản.
Thực
tế, ảnh hưởng lạm phát 28% trong tháng 7/08 đã xóa đi thành quả tăng
trưởng kinh tế trong 20 năm qua của Việt Nam. Vật giá tăng nhanh, nhập
cảng nhiều hơn xuất cảng đưa đến tình trạng thất nghiệp, mậu dịch thâm
hụt 14.4 tỷ Mỹ kim trong năm 2007 và 14.8 tỷ trong 6 tháng đầu năm 2008
và nguy hại nhất là ngân sách dự trữ ngoại tệ chỉ còn 20 tỷ Mỹ kim để
điều hành hối đoái.
CSVN điều hành kinh tế
theo quán tính, không kế hoạch. Kể từ tháng 11/2006 khi gia nhập Tổ
Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO lại càng không thể cạnh tranh trên thương
trường quốc tế vì hàng hóa kém phẩm chất. Sự chọn lựa duy nhất chỉ còn
cách xuất cảng một số mặt hàng hạn hẹp (Vertical) tiêu biểu như các
loại hải sản, gỗ, thủ công nghệ, nông sản và các mặt hàng may mặt, giày
dép. Tuy nhiên Việt Nam vẫn phải nhập cảng phân bón và chỉ sợi. Tệ hại
nhất là bán ra dầu thô để mua lại xăng với giá cao. Hiện tại CSVN đang
hợp tác với công ty dầu Exxon Mobil Mỹ để thăm dò dầu khí vùng biển
Đông nhưng đang gặp sự phản đối từ phía người anh em xã hội chủ nghĩa
Trung Cộng.
Trong năm 2007, CSVN còn nợ thế
giới 21.7 tỷ Mỹ kim không kể đến số nợ viện trợ vũ khí của khối Cộng,
viện trợ dài hạn không lời và nợ trong nước qua các đợt phát hành công
khố phiếu (Treasury bonds). Với nền kinh tế què quặt cùng với hệ thống
tham nhũng của đảng, CSVN rất khó thanh toán số nợ khi đáo hạn.
Tài sản quốc gia và tài sản đảng
Việt
Nam hiện có 3,786 công ty liên doanh và 1,720 công ty quốc doanh; trong
số nầy có 6 ngân hàng liên doanh, 26 ngân hàng cổ phần và 5 ngân hàng
quốc doanh. Tất cả đều do đảng lãnh đạo, nhất là ngân hàng và những
công ty quan trọng. Vì áp lực của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, Ngân Hàng
Thế Giới WB và Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, CSVN buộc phải tư hữu
hóa một số công ty quốc doanh. Tuy nhiên họ chỉ bán ra những công ty
kém quan trọng, không sinh lợi hoặc phá sản. Những công ty quan trọng
đều do đảng điều hành, thao túng biển thủ. Ngân sách quốc gia không cần
phải công khai hóa vào cuối niên khóa tài chính như các quốc gia tự do.
Với hệ thống đảng trị, bọn lãnh đạo độc quyền sử dụng, phân phối và
tham nhũng, không phân biệt tài sản quốc gia hay tài sản đảng.
Đến
đây chúng ta đã có khái niệm về tài nguyên trí thức CSVN, theo thống
kê, sẽ không đủ để có thể phục vụ đất nước với 84 triệu dân. Qua khái
niệm về kinh tế cộng sản, một nền kinh tế do bọn thất học và độc tài
lãnh đạo, chỉ có thể đưa đất nước đến nghèo đói. Với một nền kinh tế
què quặt, vá víu, mậu dịch thâm hụt, nợ nần tương đương 25% tổng sản
lượng quốc nội, vấn đề phá sản chỉ còn là thời gian. Vì không tin tưởng
vào tương lai, đảng viên các cấp đồng lõa tham nhũng, tẩu tán tài sản
quốc gia ra ngoại quốc làm của riêng, Việt Nam thực sự đã đến thời mạt
vận.
Với chính sách độc tài và vi hiến
(Uncoctitutional) do chính bọn đảng lập ra; tư pháp, lập pháp và hành
pháp chỉ là công cụ của đảng. Quyền tự do căn bản con người bị tước
đoạt; hậu quả là nhân quyền bị chà đạp, tư hữu bị chiếm đoạt, chưa nói
đến hệ thống hành chánh quan liêu, cục bộ đầy dẫy những phức tạp và
tham ô. Với tập quán làm việc ô hợp thối nát, liệu các chuyên gia gốc
Việt hải ngoại có thể giúp được gì cho quê hương?
Thủ
Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi 300,000 chuyên gia kinh tế có
uy tín, gồm cả thành phần phục vụ dưới thời Việt Nam Cộng Hòa trở về
phục vụ đất nước. CSVN ngụ ý nói đến một chính sách cởi mở, dân chủ,
hòa giải không còn thù hận, và là môt thông điệp rất quan trọng mà CSVN
muốn gởi đến thế giới tự do; một lối tuyên truyền cố hữu của bọn Vẹm.
Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng mang bệnh hoang tưởng, tìm đâu ra
300,000 chuyên gia kinh tế người Việt hải ngoại? Hầu hết những chức vụ
cao và quan trọng (Senior & Key positions) trong kinh tế, thường
làm việc cho chính phủ, ngân hàng, tài chánh, đầu tư và trong lứa tuổi
từ 45 đến 55. Với tập quán làm việc (Corporate culture) hủ lậu, quan
liêu của Việt Cộng, cái môi trường thối tha nầy không hấp dẫn lớp
chuyên viên Việt Nam, trừ bọn cò mồi đỏ.
Lời nhắn sau cùng với những ai có ý định về quê xây dựng đất nước:
Bằng cách nào quí vị có thể cải hóa một tên du kích Việt Cộng trì độn trở thành một người có nhân tính và khả năng để làm việc?
Việt
Cộng là bọn vô nhân tính, tàn bạo và thất học; người sống trong xã hội
nhân bản, đạo đức và học thức không thể là Việt Cộng, quí vị đứng bên
nào?
Những bài học từ Trịnh Vĩnh Bình ở Bắc
Âu, Nguyễn Trung Trực ở Úc Châu và gần đây nhất là Trần Trường ở Mỹ
Châu cũng rất đáng suy nghĩ.
Mai Vĩnh Thăng Úc Châu
MCom FAIBF, F Fin.
August 6, 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét