Cộng Sản Việt Nam từ
khi cướp chính quyền của chính phủ không Cộng Sản—gọi cho mọi người dể
nhớ-- từ năm 1945 để lập “Tôn giáo” Cộng Sản độc tôn, rồi cai trị bằng
khủng bố và bốc lột theo kinh Mác-Lê từ Bắc vào Nam đến nay là trên 64
năm nên hiện “Đạo” Cộng Sản không còn có dân. Chỉ có các tôn giáo
khuyên làm lành lánh dữ là có dân, vì những người dân nầy sẳn sàng nghe
theo vị lãnh đạo tinh thần của mình.
Chính
vì biết sức mạnh đó mà chế độ Cộng Sản nào cũng muốn tiêu diệt đức tin
tôn giáo của người dân nào dù yêu nước nhưng không tin theo giáo điều
của họ.
Hế diệt
không được thì Cộng Sản cố kiểm soát, biến tôn giáo thành công cụ quốc
doanh; biến không được thì gây lũng đoạn hoang mang cho công chúng nghi
ngờ, hết còn tin vị lãnh đạo tinh thần của mình nữa.
Để
vượt qua âm mưu đó của Cộng Sản, mọi người chúng ta cần mạnh dạn tố cáo
những phần tử “quốc doanh” của tôn giáo mình mà không nên cả nể, vì vài
trò tôn giáo luôn luôn rất quan trọng, nhất là trong hiện tình đất
nước. Lịch sử đã chứng minh như thế.
Phát
biểu trên truyền hình SBTN (Saigon Broadcasting Television Network)
chương trình “Huynh Đệ Chi Binh” với nhà văn Huy Phương ngày 23 tháng 4
năm 2009, nhà biên khảo Trần Đông Phong, tác giả quyển “Việt Nam Cộng
Hòa 10 ngày cuối cùng”, cho biết đất nước rơi vào tay Cộng Sản có nhiều
lý do, trong đó có “khối thứ ba” gồm có Phật Giáo và trên 300 Linh Mục
thuộc khối Công giáo Cấp tiến, đứng đầu là Linh Mục Phạm Minh Mẫn, tức
Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiện giờ.
Gạt
qua những tính toán chính trị và bàn tay xếp đặt của ngoại bang, nếu
chỉ xét thuần túy về tôn giáo, thì Việt Nam bị Cộng Sản cai trị không
phải chỉ vì khối Phật Giáo hay Công Giáo như dư luận từng kết tội, mà
là tất cả các tín ngưỡng khác nữa.
Trong
số những vị thuộc “khối thứ ba” nầy, lúc ấy nhiều người vì thấy chính
phủ miền Nam có những điểm bất công là họ chống để mong tình trạng được
cải thiện. Nhưng khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, thay màu
cờ Vàng bằng màu Đỏ Cộng Sản, cai trị tàn ác như một đảng cướp, những
tu sĩ nầy cũng tiếp tục chống chính phủ mới cho dân và vì dân, như
những vị thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Phật giáo Ấn
Quang), Linh Mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan ..v.v. dù họ bị Cộng Sản bắt
tù đày cũng kiên trì đứng về phía dân.
Chỉ
trừ Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và Hồng Y Phạm Minh Mẫn là không muốn vinh
danh cờ Vàng của miền Nam tự do dù sau khi “thống nhất” năm 1975, chính
những người Cộng Sản gạo cội như tướng Trần Độ, Nguyễn Hộ v.v. cũng
phải viết bài xác nhận ông đi theo Cộng Sản là “Chọn lầm chế độ”.
Còn
đa số đảng viên, cán bộ miền Bắc chứng kiến chế độ “Cờ Vàng” mà họ từng
nghe Hồ Chí Minh tố là “Thực dân, phong kiến, tham nhũng”, nhưng so lại
đời sống người dân thời tiền chiến, ngay cả trong thời chiến, Chính phủ
Quốc Gia Không Cộng Sản cũng đã thật sự lo cho dân cho nước hơn chế độ
“Cờ Đỏ” thời bình rất nhiều.
Trong
chiều hướng xây dựng –điềm chỉ cán bộ tôn giáo vận quốc doanh--đó, hiền
tài Nguyễn Thanh Liêm (Cao Đài Bắc Cali) đã can đảm bố cáo với công
luận đích danh một đồng đạo làm công cụ cho Cộng Sản, rất đáng ca ngợi
và cần phổ biến thật rộng rải, kể cả với báo chí Mỹ, nếu có thể.
Cao Đài Quốc Doanh và Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương
Theo
tin từ www.chonphapcaodai.net, ông Nguyễn Thành Tám, hội trưởng Hội
Đồng Chưởng Quản Cao Đài (quốc doanh) đã dự đại hội tại Geneve, Thụy
Sĩ, được tổ chức vào ngày 8 tháng 5, 2009. Mục đích sự có mặt của ông
Tám không gì hơn là tuyên truyền cho Cộng Sản rằng Việt Nam có mở rộng
tự do tôn giáo và thành tích cải tổ nhân quyền mà ông là đại diện cho
tôn giáo Cao Đài.
Theo
bản tin từ hiền tài Nguyễn Thanh Liêm, ông Nguyễn Thành Tám từng là đại
biểu quốc hội cộng sản với hai nhiệm kỳ. Ông Tám đã bán tài sản của Hội
Thánh Cao Đài ở Bình Dương để biến thành một khu du lịch quy mô có tên
là Đại Nam Quốc Tự là điều cần quan tâm và đem ra ánh sáng. Cái “chùa”
này cũng làm nhiều người bàn tán khi trong đó có ba tượng thờ chánh là:
Phật Như Lai (trên), Vua Hùng (giữa), Hồ Chí Minh (dưới) nạm vàng rất
đồ sộ, với hai lá cờ đỏ sao vàng. Xung quanh "chùa" là các khu du lịch,
cảnh trí, khách sạn, rạp chiếu phim v.v.. Được biết ngày khánh thành đã
có hơn 700 người mặc áo cà sa tham dự quỳ lạy.
Chính
Hồ Chí Minh khi còn sống lấy bút hiệu Trần Dân Tiên đã tự thú rằng ông
ta từng đi qua xứ Phật Thái Lan (lúc ấy ông gọi là Xiêm La) để ăn xôi
chùa mà truyền bá đạo Mác Lê cho vùng Đông Nam Á. Khi chết đất nước còn
chia hai, ông chung vô lăng Ba Đình miền Bắc, khi chiếm miền Nam “thống
nhất” rồi và mấy ông trung ương đảng giàu quá rồi, sao nở để cho Hồ
Giáo Chủ đói mà phải bò vô Nam tiếp tục ăn xôi chùa?
Thế
mà đảng vẫn sợ người không đi chùa tỉnh Bình Dương thì sẽ quên mất ông
Hồ nên dù hiến pháp ghi phải trị nước theo tư tưởng Hồ Giáo Chủ, đảng
vẫn thấy chưa đủ mạnh, nên từ nhiều năm nay, nhất là từ đầu năm 2009
nhà nước rầm rộ thi đua viết về gương “Đạo Đức Bác Hồ”.
Công Giáo quốc doanh: Linh Mục ca tụng “Đạo Đức Bác Hồ”. Tờ
báo Đồng Nai của Đảng ủy tỉnh láng giềng Bình Dương, đăng tin Linh mục
Vũ Hoàng Ánh đã nói rằng: “Sau khi cuộc vận động lớn được phát động,
tôi có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về tấm lòng của Người. Người đã hy
sinh cả cuộc đời để đem lại hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc. Lúc
đầu bà con cho rằng, cuộc vận động này là dành riêng cho cán bộ học
tập. Tôi đã giải thích để mọi người hiểu rõ những giá trị đạo đức của
các tôn giáo không xa với tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.”
Một
người góp ý trên trang Web Vietland cuối tháng 5/09 viết bài phê bình
dài, trích đoạn: “Ai cũng cảm thấy thương cho vị linh mục này, một
người đã nguyện cả đời theo Chúa, nhưng lại đã đặt niềm tin không đúng
chỗ, ham hố lợi danh đến mức quên mất bản thân và ơn gọi của chính mình.
“Không
biết vị linh mục này ngây thơ, thiếu thông tin hay cố tình không hiểu,
Hồ Chí Minh là người đã mang ý thức hệ vô thần vào trong đất nước này,
khiến cho đất nước, cho dân tộc rơi vào tình cảnh tang tóc. Chính Hồ
Chí Minh chứ không ai khác phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc
đưa chủ nghĩa vô thần cộng sản vào đất nước này để làm suy đồi đạo đức
xã hội như ngày nay. Với người cộng sản vô thần, vật chất là trên hết,
tiền bạc, của cải là trên hết, chẳng có thần thánh, linh hồn hay bất cứ
thứ gì để hạn chế tính thú vật và man rợ của họ.
“Hẳn
rằng vị linh mục Vũ Hoàng Ánh này đã bị ngộ độc thông tin và không hiểu
được Hồ Chí Minh là ai. Một người nghiên cứu về Hồ Chí Minh cho rằng,
thực chất là một nhân vật tưởng tượng, không có thật. Này nhé: Để xác
định một con người có thật, thì các tiêu chí sau đây phải được xác
định: Tên, tuổi, ngày tháng năm sinh, quê quán, dòng giống, ông bà cha
mẹ, những người liên quan như vợ con bạn bè, ngày chết…
“Với Hồ Chí Minh, tên không đúng của mình, hết Nguyễn Sinh Công rồi trăm tên khác, và cuối cùng là Hồ Chí Minh. Cứ
cho là ông ta hoạt động cách mạng nên thay họ đổi tên. Vậy tại sao đến
cuối đời ông vẫn không lấy đúng họ của mình khi sinh ra là họ Nguyễn?”
(hết trích).
Rất
may là chúng ta có Linh Mục Tadeo Nguyễn Văn Lý, sáng lập khối 8406,
khi chưa bị cầm tù, Ngài đã gửi ra Quốc Hội Hoa Kỳ bản điều trần về
tình trạng không có tự do tôn giáo tại Việt Nam và xin các vị dân cử
Hoa Kỳ cứ công bình thẳng thắn, đừng cả nể khi nói về Hồ Chí Minh như
từ lâu bị xuyên tạc…”
Như
vậy đạo nào cũng có người hành đạo chân chính, người chỉ đội lốt tôn
giáo vì lợi riêng. Cộng Sản cũng gia công tiêu diệt hay lũng đoạn Phật
giáo y như những tôn giáo khác. Ta thử tìm hiểu lý luận bậc tu chân
chính như thế nào và những người học lời Phật nhưng thi hành sai lệch
là ai? Thông Điệp Phật Đản 2009 và những Chướng Duyên của Phật giáo.
Hàng
năm đến Rằm tháng Tư Âm lịch, thường rơi vào tháng Năm dương lịch, là
vào mùa Phật Đản, Phật tử khắp thế giới tổ chức Đại Lễ mừng Sinh Nhật
đức Phật Thích Ca.
Đại
Lễ Phật Đản 2009 năm nay có hiện tượng nổi bậc là khắp nơi đã tích cực
ủng hộ lời kêu gọi “Tháng Năm Biểu Tình Tại Gia, Bất Tuân Dân Sự” của
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi
Nhôm nước ngoài {Bauxite], đòi Cộng Sản công bố hai bản hiệp ước biên
giới, đòi Việt Cộng phải nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa cho Liên Hiệp
Quốc trước khi hết hạn ngày 1 tháng 5 năm 2009.
Lời
kêu gọi nầy được Cộng Đồng tị nạn Cộng Sản Việt Nam tại các quốc gia
hưởng ứng từ tháng trước, khi tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4, ôn
lại tội lỗi 34 năm Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam.
Nhờ
sự phản ứng dữ dội của các giới trong và ngoài nước trước sự hèn nhác
dâng đất dâng biển của Cộng Sản như vậy mà nhà nước Cộng Sản đã nộp đơn
trước khi hết hạn. Nhưng nội dung hồ sơ có bao gồm đủ yếu tố lịch sử và
pháp lý để bênh vực cho quyền lợi tổ quốc không thì Việt Cộng chưa cho
ai biết, kể cả quốc hội bù nhìn của họ cũng mù tịt!
Trong
thông điệp Phật Đản Phật Lịch 2553-2009, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng
Độ, xử lý Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã
giải thích lý do của lời kêu gọi Tháng Năm Bất Tuân Dân Sự đó là vì:
“Tinh
thần bao dung, giáo lý Từ bi, Trí tuệ và Hùng lực của Phật giáo đã từng
tô bồi, giúp đỡ cho các vương triều Đinh, Lê, Lý, Trần dựng nước, giữ
nước và đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ; không để mất một
tấc đất tấc biển nào. Vua Lê Thánh Tông của 600 năm trước đã từng nhắc
nhở thần dân : “Ta phải giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy một phân
núi, một tấc sông !” do Tiền nhân để lại ! Ngày nay chúng ta nghĩ sao,
khi hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang rơi vào tay Trung Quốc?
Không
những thế mà nguy cơ mất nước đang rình rập thách đố quê hương, ở vùng
biên giới và vùng Tây nguyên nội địa, nơi mà nhà cầm quyền Hà Nội, bất
chấp dư luận cảnh báo, đã để cho hàng ngàn công nhân Trung Quốc đến
sinh cơ lập nghiệp khai thác quặng bô-xít. Liên quan tới nguy biến này,
ngày 29-3-2009, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, tôi đã ra Lời
Kêu gọi toàn dân Bất tuân dân sự và thực hiện cuộc Biểu tình tại gia
trong suốt tháng 5 …”
Đáng
lẽ họa mất nước rõ rệt như vậy thì mọi người đều đồng lòng lên tiếng
cảnh tỉnh những người Cộng Sản đã từng khoe khoan là yêu nước phải thực
sự thúc đẩy toàn dân đứng lên giữ nước như Đại Lão Hòa Thượng Quảng Độ,
nhưng tinh thần vô úy đó của vị chân tu lại gặp chướng duyên, không
phải từ quốc nội, nơi bị Cộng Sản kềm kẹp, mà là từ hải ngoại, nơi mà
quyền tự do ngôn luận được tôn trọng hầu như tuyệt đối.
Một
số trong những chướng duyên đó là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và nhóm Phật
Giáo ly khai. Cũng nhân danh giáo lý Từ Bi của Phật giáo, Thiền Sư
Thích Nhất Hạnh dẫn đoàn tăng thân Phật giáo quốc tế Làng Mai cả trăm
người về Việt Nam tham dự Đại Lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc năm 2008 (Vesak
2008 IOC).
Dịp nầy Thiền Sư đã giảng pháp tại Hà Nội nhiều đề tài, trong ấy có chủ đề:
“Đạo Phật của tuổi trẻ: Gieo hạt từ bi, Giữ gìn đất mẹ”. Không
hiểu Thiền Sư dạy tuổi trẻ “gieo hạt từ bi” thế nào khi Cộng Sản Việt
Nam từ sau năm 1975 đến nay không ngừng tay bán nước buôn dân và tiêu
diệt tôn giáo? Thậm chí chúng thẳng tay xóa sổ Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất do nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ
lãnh đạo, nơi Thiền Sư đã từ đó mà xuất thân?
Rõ
ràng Thiền Sư Nhất Hạnh rất “từ bi” với hung thần Cộng Sản và bất công
với nạn nhân đã bị bọn hung thần nầy cướp của bắt tù đày, phải vượt
biên tìm cuộc sống mới nơi xứ người, khi Thiền Sư trả lời câu hỏi trong
bài giảng trực tuyến ngày 4 tháng 5 năm 2008 tại tòa báo đảng ViệtNam
Net: “Thiền Sư làm gì cho người Việt ở Hoa Kỳ quên đi quá khứ?”. Trả
lời [Nguyên văn]: “Có những người rất khó để quên đi quá khứ. Họ không
bao giờ tha thứ cho những người đã khiến họ mất đi những địa vị đã có.”
Ai Là Người Ôm Ấp Mãi Hận Thù Quá Khứ?
Tuyên bố với tuổi trẻ trong nước như vậy là chính Thiền Sư gây thêm hận thù quá khứ.
Thử
hỏi với tội ác dâng Hoàng Sa Trường Sa từ năm 1958 do Thủ Tướng chính
phủ Hồ Chí Minh là Phạm Văn Đồng ký, nạn xuất cảng lao động và trẻ vị
thành niên bị bán vào động mãi dâm v.v.., không những tuổi trẻ hải
ngoại không hề có quyền lợi gì trước năm 1975 cũng hận thù kẻ bán nước
cầu vinh; mà tuổi trẻ trong nước dù dưới sự áp bức của bạo quyền, cũng
dám đứng lên vì lòng yêu nước chứ họ có địa vị gì trong quá khứ đâu?
Tội
lỗi của đảng Cộng Sản đối với đất nước càng ngày càng sâu đậm đến ngay
cả giới trí thức và các tướng nổi danh, từng có địa vị trong chế độ
Cộng Sản như Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên (được coi là “kiến trúc sư”
của đường mòn Trường Sơn), Bà Nguyễn Thị Bình, cưu Phó Chủ Tịch nước
cũng lên tiếng phản đối việc để cho hàng chục ngàn công nhân Trung Cộng
khai thác Bauxite, chiếm cái “Xương Sống” Tây Nguyên của Việt Nam.
Vấn
đề đáng nói là, mãi đến hiện nay, năm 2009, các “ân nhân” của Cộng Sản
nầy đã chẳng những không hề hối hận đã sai lầm, mà họ còn viết sách
hãnh diện khoe công trạng đem lại “Hòa Bình”, chấm dứt chiến tranh Đông
Dương của mình!!!
Điển
hình như trước khi rời Paris về Việt Nam khiến Mỹ bỏ qui chế CPC, cứu
giá Cộng Sản, Sư Ông Nhất Hạnh tuyên bố mình không về vì chính trị; Sư
Bà Chân Không còn tuyên bố với truyền thông Pháp đại ý rằng tăng thân
Làng Mai không có ý đồ chính trị nên không sợ bị chế độ làm khó dễ, chỉ
có những người tu mà còn theo màu cờ vàng mới sợ…Tuyên bố như vậy là
gián tiếp xác nhận Việt Cộng cáo buộc GHPGVNTN làm chính trị vì muốn
giành quyền lợi, nên bị đàn áp là đúng! Luôn thể minh xác việc đồng chí
John Kerry ngâm tôm Dự Luật Nhân Quyền HR 2833 cũng chính đáng luôn!
Chỉ
tiếc là Sư Bà Chân Không quên rằng sau 30-4-1975, tức 34 năm trước, khi
Cộng Sản đền ơn Ông, Bà bằng cướp hết tài sản GHPGVNTN, bắt tù các tăng
sĩ, tuyên án tử hình tu sĩ Phật giáo, Bà bèn đi vận động, kêu cứu Cộng
Đồng Người Việt tại Paris và các đồng chí phản chiến cũ tại Hoa Kỳ, Sư
Bà đã dùng cờ vàng để trang trí phòng họp? Nhưng rồi chẳng một ai thèm
biểu tình tiếp cứu.
Phải
chăng vì vậy mà sau đó Làng Mai của nhị vị mới “không làm chính trị”
chống bạo quyền để vừa lòng Việt Cộng lẫn Mỹ thân Cộng hầu được ân huệ
riêng?
Sứ Giả Như Lai Thích Quảng Độ: Ý chí Phật giáo vẫn trường tồn.
Cho
nên Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ rất thông suốt thảm cảnh Việt Nam
trước những Chướng Duyên Nội, Ngoại thù cũ mà mới khi Ngài minh định
trong Thông Điệp Phật Đản 2009 rằng:
“Nhân
mùa Phật Đản năm nay, tôi thấy cần tiếp tục khẳng định rằng, GHPGVNTN,
trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau cũng vậy, không tranh chấp
với bất cứ quyền bính thế tục nào, hay bất cứ ai, mà lịch sử từng chứng
kiến qua các thời kỳ Phật giáo cực thịnh.
“GHPGVNTN
trước sau chỉ là mối truyền thừa sự nghiệp Giác ngộ và Giải thoát của
chư Phật và liệt vị Tổ sư các thời đại ; Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam là
sứ giả Như Lai, làm việc của Như Lai cho lý tưởng Từ bi, Trí tuệ, Đại
hùng Đại lực của Đức Thế Tôn trên dải đất Việt Nam. GHPGVNTN chưa hề
đem thân làm kẻ thừa sai cho bất cứ thế lực ngoại lai hay đảng phái
chính trị thế tục nào.
Đại
Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng nhân dịp nầy khuyến thỉnh Chư Tôn
Đại Đức Tăng Ni và Phật tử: “Càng gặp chướng duyên, chúng ta càng
trưởng thành trong tinh thần “Giữ chí phụng đạo, đạo ấy cao sâu”. Càng
gặp gian nan, chúng ta càng thể hiện lời Phật dạy : “Hãy lấy ma quân
làm đạo bạn, lấy nghịch cảnh làm phương tiện thành tựu sự nghiệp lợi
sanh, xem ân sủng như đôi dép rách”. Để cùng nhau nỗ lực vượt thoát mọi
chướng ngại, xây dựng lại ngôi nhà Phật giáo mà ngót 34 năm qua ở miền
Nam và 54 năm ở miền Bắc, cơ sở Phật giáo bị đánh phá tận gốc rễ, nhưng
ý chí Phật giáo vẫn trường tồn..”
Sau
năm 1975, hai học giả tu sĩ Phật giáo Đại Đức Thích Tuệ Sỹ (Nhóm Về
Nguồn và Thân Hữu Già Lam hiện giờ) và Thích Trí Siêu tức Lê Mạnh Thát
bị Cộng Sản tuyên án tử hình, giáo sư Võ Văn Ái, cơ sở Quê Mẹ kiêm Ủy
Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris (nay là giám đốc Thông
Tin Báo Chí Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại), vận động
các quốc gia khắp thế giới, cả với Liên Hiệp Quốc can thiệp, nên được
toàn mạng sống.
Nay
ông Lê Mạnh Thát đứng về phe Phật giáo quốc doanh, tổ chức Đại Lễ Phật
Đản Liên Hợp Quốc năm 2008. Riêng nhóm Phật giáo ly khai Về Nguồn còn
cáo buộc ông Võ Văn Ái tạo ra Chỉ dụ số 9 “giả” vì bè phái và vì nhận
tiền của Mỹ (làm như Phật giáo quốc doanh của họ tu không cần tiền ai
cả vậy. Nếu nhận ai giúp đở là làm tay sai cho người đó thì con nít bây
giờ cũng hiểu: thà làm tay sai Mỹ vẫn hơn là làm dân oan của Cộng Sản.
Huống hồ gì không đúng như vậy). Nhóm Giao Điểm như Trần Chung Ngọc
cũng gièm pha thiếu khôn ngoan kiểu ấy, và còn nhạo báng cơ sở Quê Mẹ,
bằng nguyên bài viết tựa đề: “Nhân quyền cho ai và vì ai?”
Xin
trả lời ngay Trần Chung Ngọc: Ít nhất là lịch sử đã chứng minh giáo sư
Võ Văn Ái tranh đấu đòi Nhân Quyền cho hai tử tội Trí Siêu (Lê Mạnh
Thát) và Tuệ Sỹ (Phạm Văn Thương). Giáo Sư Võ Văn Ái còn ra tay thực sự
cứu Người Vượt Biển bằng góp công đắc lực trong việc kiến tạo con tàu
“Đảo Ánh Sáng” (L’ile de Lumière) và liên tục trên 30 năm nay làm loa
lên tiếng khắp thế giới cho Nhân Quyền Dân Oan cùng kêu gào cho sự phục
hoạt của Giáo Hội vì ngay từ lúc mới “Giải Phóng miền Nam”, tất cả các
tôn giáo, dĩ nhiên trong đó có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
bị Ban Tôn Giáo Cộng Sản ép buộc phải nằm dưới sự quản lý của chế độ.
Năm
1977 khi Ngài Huyền Quang và Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ chối khéo là
“Chuyện tôn giáo còn phải chờ họp Hội Đồng Lưỡng Viện lại rồi mới quyết
định được” , vậy là Nhị vị Hòa Thượng bị Cộng Sản bắt đi lưu đày trên
mười năm, sau đó là bị giam lõng tại Tu Viện Nguyên Thiều tới ngày tạ
thế. Chính Hòa Thượng Thích Không Tánh, người thực sự được biết những
hoạt động của cố Tăng Thống Thích Huyền Quang suốt thời gian từ thời
con thuyền Giáo hội PGVNTN bị Cộng Sản quyết chí nhận chìm ấy, Hòa
Thượng Không Tánh đã cho biết Ngài Huyền Quang có một trí tuệ phi
thường, tiên tri những gì sẽ xảy ra, nên ngay khi còn tỉnh táo đã tự
tay ban Chỉ dụ số 9 để nếu vận nước còn ngữa nghiêng, ác đảng còn tiếp
tục tiêu diệt thêm những nhân chủng Vô Úy ít ỏi còn lại trong nước, thì
ngoài nước còn có Văn phòng II Viện Hóa Đạo để truyền thừa Giáo hội
Phật Gíao Việt Nam Thống Nhất độc lập, thật sự vì dân tộc và Phật pháp.
Vậy Chỉ Dụ 9
quả thật là của cố Tăng Thống Thích Huyền Quang chứ không do ai giả mạo
như tin đồn. Xác nhận nầy đã được phóng viên Thanh Toàn phỏng vấn Hòa
Thượng Thích Không Tánh và đã phát đi phát lại nhiều lần trên hệ thống
truyền hình SBTN phổ biến khắp Hoa Kỳ và Canada, cùng trên các luồng
sóng phát thanh khác khắp thế giới. Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
cũng từng lên tiếng trên đài Á Châu Tự Do, BBC v.v..
Giáo
sư Võ Văn Ái chỉ làm nhiệm vụ thông tin, phát thanh lời của nhị vị Hòa
Thượng lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cho thế giới
hiểu thảm trạng của dân tộc và Phật giáoViệt Nam từ thời Việt Cộng ém
nhẹm rồi vu khống vụ tự thiêu của 12 Tăng Ni thuộc Thiền viện Dược Sư
tỉnh Cần Thơ vào tháng 11 năm 1975 để phản đối nhà nước đàn áp tín
ngưỡng, liên tục trên các diễn đàn quốc tế cho đến tháng 5/2009, lúc mà
phái đoàn Việt Cộng phải phúc trình về tình trạng nhân quyền tại Liên
Hiệp Quốc tại Geneve.
Còn
ông Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc chỉ giỏi tài “Ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng
Sản”, cùng với nhóm Giao Điểm viết bài khen Thiền Sư Nhất Hạnh cả khi
nói sai vụ Bến tre trong bài cầu nguyện cho nạn nhân vụ 911. Nhóm Giao
Điểm còn khuyên Hòa Thượng Thích Quảng độ nên bắt tay với Việt Cộng vì
“Cộng Sản không phải là kẻ thù mà là Ca Tô Giáo”, chính chúng tôi đã
chính thức lên tiếng phản đối bài viết lối “Dùng tôn giáo diệt tôn
giáo” của Cộng Sản nầy vì nó trái ngược với giáo lý của Đức Phật, thì
Trần Chung Ngọc tích cực bênh vực cây viết nhân danh Phật tử thuộc nhóm
Giao Điểm nầy và tặng cho Việt Nữ danh hiệu “Man rợ trí thức”.
Bài
sau chúng tôi sẽ trở lại câu chuyện nầy. Ở đây đang nói về “Những
Chướng Duyên của Phật giáo” và lời Phật dạy đối với người làm ơn cho kẻ
khác mà bị phản bội.
Quả thật giáo sư Võ Văn Ái đã thực hành “Xem ân nghĩa như đôi dép rách”.
Nhớ
lại Đại Lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Hà Nội do ông Lê Mạnh Thát
được nhà nước ủy thác tổ chức, phóng viên Thanh Toàn của đài Truyền
hình SBTN hải ngọai (Saigon Broadcasting Television network) được phép
về nước làm phóng sự truyền hình. Hình ảnh thật là “hoành tráng” hơn ở
các quốc gia tự do khác. Nhưng khi nghe nhiều người dân trả lời phỏng
vấn, nhất là hai người đàn bà, một Bắc và một Nam tuy lời lẽ rất mộc
mạc, nhưng đã đầy tính lịch sử y như Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
tố cáo tội ác 54+34=84 năm đánh phá Phật giáo tận gốc rễ của Cộng Sản:
Thanh
Toàn hỏi một cụ già miền Bắc da mặt nhăn nheo khoản 80 tuổi: “Xin cụ
cho biết cảm nghĩ, đi dự lễ Phật Đản có vui không?” Đáp: “Vui quá chứ
sao, vì từ bé tới giờ mới được biết có ngày như vầy…” Như vậy có nghĩa
là từ Hồ Chí Minh chia hai đất nước bằng hiệp định Genève năm 1945 tới
năm 2008=54 năm ở miền Bắc không hề còn Phật giáo để mà có lễ Phật Đản!
Rồi như vẫn thấm nhuần nghệ thuật nhồi sọ thời đấu tố của XHCN miền
Bắc, hồi sau cụ bà nói thêm: “Nhờ ơn Bác, ơn Đảng mới có ngày nay!”
Khi
hỏi bà trẻ hơn, cở tuổi 50, ở miền Nam ra Hà Nội dự lễ, trả lời: tôi
được đưa ra đây để đem các bức tượng và hình ảnh sinh hoạt ở trong Nam
để trang hoàng khu triển lãm văn hóa Phật Giáo cho thế giới biết; tưởng
được vào xem, nhưng đâu có được. Nhưng cũng vui lắm, mà làm sao dạy
được cho mấy ông nhà nước biết đạo. Lâu nay con đường dẫn vào chùa quê
tôi quá hẹp. Dân làng họp lại chỉ xin một chút đất để làm đường đủ rộng
tiện cho dân đi đến chùa. Vậy mà xã trưởng không cho…Bà còn nhấn mạnh:
trong Nam mấy ổng đâu biết đến đạo là gì?
Vậy
rõ ràng là từ khi xâm chiếm miền Nam đến nay, 2009 là 34 năm, Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Viện Hóa Đạo do Hòa Thượng Quảng Độ
là Viện Trưởng được hoạt động rất thịnh hành thời Việt Nam Cộng Hòa,
nhưng từ năm 1975, dần dần bị tiêu diệt, nếu có các tổ chức tôn giáo
Quốc Doanh, như Phật giáo VNTN chỉ là Phật giáo Tiếm Danh mà thôi. Còn
Đại Lễ Phật Đản 2008 là của Liên Hiệp Quốc, để lòe thế giới là Cộng Sản
có tự do tôn giáo.
Cho
nên trong thông điệp Phật Đản 2009, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ
viết tiếp: “Trước hoàn cảnh hiện tại, Giáo hội đặc biệt quan tâm đến
hiện tình đất nước qua bốn nhận thức.” mà chúng tôi xin tóm lược hai
điểm đầu như sau:
1.
An ninh quốc phòng và Vẹn toàn lãnh thổ đang bị uy hiếp. Chỉ nhờ vào
sức mạnh toàn dân mới vượt qua khỏi cơn nguy biến. Nếu Đảng và Nhà nước
không cấp thời cải tổ sâu rộng hệ thống chính trị độc đảng sang thể chế
đa đảng để toàn dân và các thành phần dân tộc có thể tham gia cứu nguy
quê cha đất tổ.
2. Cần phổ biến ý thức đặt sự sống còn của Tổ quốc và Dân tộc lên trên mọi ý thức hệ cục bộ hay giai cấp.. v.v…
Quê Mẹ Đang Lâm Nguy, Thiền Sư Nhất Hạnh Giữ gìn đất mẹ thế nào?
Không
mong gì chính phủ Ngụy Hòa Mỹ hiện nay giúp mình, vì chỉ có “Người Việt
mới thực tình thương người Việt”, vậy Thiền Sư Nhất Hạnh làm gì để cứu
người Việt đúng với thiên chức một Sứ Giả Như Lai? Thiền Sư Nhất Hạnh
dạy gì với chủ đề “Giữ gìn đất mẹ” nhân mùa xuân mà năm 1975 Cộng Sản
gọi là “Mùa Xuân đại thắng” nầy? Trong khi Hòa Thượng Thích Quảng Độ ở
trong lòng địch mà từ “Mùa Xuân đại bại” 30 tháng 4 năm 1975 đến nay
vẫn kiên trì chống tội ác, hiện giờ vẫn dám mạnh dạn kêu gọi Biểu Tình
Tại Gia chống Cộng Sản để “cứu nguy quê cha đất tổ”; mọi người cần “đặt
sự sống còn của Tổ quốc và Dân tộc lên trên mọi ý thức hệ cục bộ”; còn
Thiền Sư Nhất Hạnh thông dong hải ngoại lại muốn hòa hợp với Cộng Sản
để bành trướng dòng Tiếp Hiện của riêng mình mà bênh vực kẻ bán nước ào
ào!.
Điều khổ
đau của dân tộc và đạo pháp là cho đến hiện nay, Sư Ông Nhất Hạnh vẫn
tiếp tục tin tưởng hành động phản chiến kêu gọi hòa bình thiên Cộng của
mình là chính nghĩa, các chuyến về nước bắt tay với bạo quyền Cộng Sản
là chính pháp; ai làm ngược lại như Hòa Thượng Quảng Độ là “Không biết
bao dung”, là “Còn chứa chấp hận thù”. Còn Trần Chung Ngọc cũng đang ở
Mỹ, trước 1975 nhờ Việt Nam Cộng Hòa cho đi học Mỹ, nhưng thù hận Mỹ và
phe Quốc Gia, mà sùng bái Cờ Đỏ máu.
Phải
chăng Sư Ông Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai, nhóm Giao Điểm, Về
Nguồn, Thân Hữu Già Lam là “Chướng Duyên”, “Chướng Nghiệp” của Phật
giáo”?
Còn ai
đủ khả năng làm “loa” kêu gọi cho Quyền Làm Người Việt Nam vang vội
khắp thế giới và kiên trì như giáo sư Võ Văn Ái? Trước hiểm họa đất
nước bị giặc ngoại xâm như hiện nay, còn ai xứng đáng lèo lái con
thuyền Phật Giáo Việt Nam với đầy đủ Từ, Bi, Trí, Dũng và tinh thần vô
úy có chiều dài hơn 30 năm chịu kiếp “Tù không tội” mà vẫn không sờn
lòng như bậc Thánh Tăng Thích Quảng Độ?
Nguyễn Việt Nữ
(Mùa Phật Đản 2009)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét