Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

19 tháng 11 2009

Tôn Giáo Trước Hiện Tình Đất Nước

Cộng Sản Việt Nam từ khi cướp chính quyền của chính phủ không Cộng Sản—gọi cho mọi người dể nhớ-- từ năm 1945 để lập “Tôn giáo” Cộng Sản độc tôn, rồi cai trị bằng khủng bố và bốc lột theo kinh Mác-Lê từ Bắc vào Nam đến nay là trên 64 năm nên hiện “Đạo” Cộng Sản không còn có dân. Chỉ có các tôn giáo khuyên làm lành lánh dữ là có dân, vì những người dân nầy sẳn sàng nghe theo vị lãnh đạo tinh thần của mình.
Chính vì biết sức mạnh đó mà chế độ Cộng Sản nào cũng muốn tiêu diệt đức tin tôn giáo của người dân nào dù yêu nước nhưng không tin theo giáo điều của họ.
Hế diệt không được thì Cộng Sản cố kiểm soát, biến tôn giáo thành công cụ quốc doanh; biến không được thì gây lũng đoạn hoang mang cho công chúng nghi ngờ, hết còn tin vị lãnh đạo tinh thần của mình nữa.
Để vượt qua âm mưu đó của Cộng Sản, mọi người chúng ta cần mạnh dạn tố cáo những phần tử “quốc doanh” của tôn giáo mình mà không nên cả nể, vì vài trò tôn giáo luôn luôn rất quan trọng, nhất là trong hiện tình đất nước. Lịch sử đã chứng minh như thế.
Phát biểu trên truyền hình SBTN (Saigon Broadcasting Television Network) chương trình “Huynh Đệ Chi Binh” với nhà văn Huy Phương ngày 23 tháng 4 năm 2009, nhà biên khảo Trần Đông Phong, tác giả quyển “Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng”, cho biết đất nước rơi vào tay Cộng Sản có nhiều lý do, trong đó có “khối thứ ba” gồm có Phật Giáo và trên 300 Linh Mục thuộc khối Công giáo Cấp tiến, đứng đầu là Linh Mục Phạm Minh Mẫn, tức Hồng Y Phạm Minh Mẫn hiện giờ.
Gạt qua những tính toán chính trị và bàn tay xếp đặt của ngoại bang, nếu chỉ xét thuần túy về tôn giáo, thì Việt Nam bị Cộng Sản cai trị không phải chỉ vì khối Phật Giáo hay Công Giáo như dư luận từng kết tội, mà là tất cả các tín ngưỡng khác nữa.
Trong số những vị thuộc “khối thứ ba” nầy, lúc ấy nhiều người vì thấy chính phủ miền Nam có những điểm bất công là họ chống để mong tình trạng được cải thiện. Nhưng khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, thay màu cờ Vàng bằng màu Đỏ Cộng Sản, cai trị tàn ác như một đảng cướp, những tu sĩ nầy cũng tiếp tục chống chính phủ mới cho dân và vì dân, như những vị thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Phật giáo Ấn Quang), Linh Mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan ..v.v. dù họ bị Cộng Sản bắt tù đày cũng kiên trì đứng về phía dân.
Chỉ trừ Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và Hồng Y Phạm Minh Mẫn là không muốn vinh danh cờ Vàng của miền Nam tự do dù sau khi “thống nhất” năm 1975, chính những người Cộng Sản gạo cội như tướng Trần Độ, Nguyễn Hộ v.v. cũng phải viết bài xác nhận ông đi theo Cộng Sản là “Chọn lầm chế độ”.
Còn đa số đảng viên, cán bộ miền Bắc chứng kiến chế độ “Cờ Vàng” mà họ từng nghe Hồ Chí Minh tố là “Thực dân, phong kiến, tham nhũng”, nhưng so lại đời sống người dân thời tiền chiến, ngay cả trong thời chiến, Chính phủ Quốc Gia Không Cộng Sản cũng đã thật sự lo cho dân cho nước hơn chế độ “Cờ Đỏ” thời bình rất nhiều.
Trong chiều hướng xây dựng –điềm chỉ cán bộ tôn giáo vận quốc doanh--đó, hiền tài Nguyễn Thanh Liêm (Cao Đài Bắc Cali) đã can đảm bố cáo với công luận đích danh một đồng đạo làm công cụ cho Cộng Sản, rất đáng ca ngợi và cần phổ biến thật rộng rải, kể cả với báo chí Mỹ, nếu có thể.
Cao Đài Quốc Doanh và Đại Nam Quốc Tự ở Bình Dương
Theo tin từ www.chonphapcaodai.net, ông Nguyễn Thành Tám, hội trưởng Hội Đồng Chưởng Quản Cao Đài (quốc doanh) đã dự đại hội tại Geneve, Thụy Sĩ, được tổ chức vào ngày 8 tháng 5, 2009. Mục đích sự có mặt của ông Tám không gì hơn là tuyên truyền cho Cộng Sản rằng Việt Nam có mở rộng tự do tôn giáo và thành tích cải tổ nhân quyền mà ông là đại diện cho tôn giáo Cao Đài.
Theo bản tin từ hiền tài Nguyễn Thanh Liêm, ông Nguyễn Thành Tám từng là đại biểu quốc hội cộng sản với hai nhiệm kỳ. Ông Tám đã bán tài sản của Hội Thánh Cao Đài ở Bình Dương để biến thành một khu du lịch quy mô có tên là Đại Nam Quốc Tự là điều cần quan tâm và đem ra ánh sáng. Cái “chùa” này cũng làm nhiều người bàn tán khi trong đó có ba tượng thờ chánh là: Phật Như Lai (trên), Vua Hùng (giữa), Hồ Chí Minh (dưới) nạm vàng rất đồ sộ, với hai lá cờ đỏ sao vàng. Xung quanh "chùa" là các khu du lịch, cảnh trí, khách sạn, rạp chiếu phim v.v.. Được biết ngày khánh thành đã có hơn 700 người mặc áo cà sa tham dự quỳ lạy.
Chính Hồ Chí Minh khi còn sống lấy bút hiệu Trần Dân Tiên đã tự thú rằng ông ta từng đi qua xứ Phật Thái Lan (lúc ấy ông gọi là Xiêm La) để ăn xôi chùa mà truyền bá đạo Mác Lê cho vùng Đông Nam Á. Khi chết đất nước còn chia hai, ông chung vô lăng Ba Đình miền Bắc, khi chiếm miền Nam “thống nhất” rồi và mấy ông trung ương đảng giàu quá rồi, sao nở để cho Hồ Giáo Chủ đói mà phải bò vô Nam tiếp tục ăn xôi chùa?
Thế mà đảng vẫn sợ người không đi chùa tỉnh Bình Dương thì sẽ quên mất ông Hồ nên dù hiến pháp ghi phải trị nước theo tư tưởng Hồ Giáo Chủ, đảng vẫn thấy chưa đủ mạnh, nên từ nhiều năm nay, nhất là từ đầu năm 2009 nhà nước rầm rộ thi đua viết về gương “Đạo Đức Bác Hồ”.
Công Giáo quốc doanh: Linh Mục ca tụng “Đạo Đức Bác Hồ”. Tờ báo Đồng Nai của Đảng ủy tỉnh láng giềng Bình Dương, đăng tin Linh mục Vũ Hoàng Ánh đã nói rằng: “Sau khi cuộc vận động lớn được phát động, tôi có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về tấm lòng của Người. Người đã hy sinh cả cuộc đời để đem lại hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc. Lúc đầu bà con cho rằng, cuộc vận động này là dành riêng cho cán bộ học tập. Tôi đã giải thích để mọi người hiểu rõ những giá trị đạo đức của các tôn giáo không xa với tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.”
Một người góp ý trên trang Web Vietland cuối tháng 5/09 viết bài phê bình dài, trích đoạn: “Ai cũng cảm thấy thương cho vị linh mục này, một người đã nguyện cả đời theo Chúa, nhưng lại đã đặt niềm tin không đúng chỗ, ham hố lợi danh đến mức quên mất bản thân và ơn gọi của chính mình.
“Không biết vị linh mục này ngây thơ, thiếu thông tin hay cố tình không hiểu, Hồ Chí Minh là người đã mang ý thức hệ vô thần vào trong đất nước này, khiến cho đất nước, cho dân tộc rơi vào tình cảnh tang tóc. Chính Hồ Chí Minh chứ không ai khác phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc đưa chủ nghĩa vô thần cộng sản vào đất nước này để làm suy đồi đạo đức xã hội như ngày nay. Với người cộng sản vô thần, vật chất là trên hết, tiền bạc, của cải là trên hết, chẳng có thần thánh, linh hồn hay bất cứ thứ gì để hạn chế tính thú vật và man rợ của họ.
“Hẳn rằng vị linh mục Vũ Hoàng Ánh này đã bị ngộ độc thông tin và không hiểu được Hồ Chí Minh là ai. Một người nghiên cứu về Hồ Chí Minh cho rằng, thực chất là một nhân vật tưởng tượng, không có thật. Này nhé: Để xác định một con người có thật, thì các tiêu chí sau đây phải được xác định: Tên, tuổi, ngày tháng năm sinh, quê quán, dòng giống, ông bà cha mẹ, những người liên quan như vợ con bạn bè, ngày chết…
“Với Hồ Chí Minh, tên không đúng của mình, hết Nguyễn Sinh Công rồi trăm tên khác, và cuối cùng là Hồ Chí Minh. Cứ cho là ông ta hoạt động cách mạng nên thay họ đổi tên. Vậy tại sao đến cuối đời ông vẫn không lấy đúng họ của mình khi sinh ra là họ Nguyễn?” (hết trích).
Rất may là chúng ta có Linh Mục Tadeo Nguyễn Văn Lý, sáng lập khối 8406, khi chưa bị cầm tù, Ngài đã gửi ra Quốc Hội Hoa Kỳ bản điều trần về tình trạng không có tự do tôn giáo tại Việt Nam và xin các vị dân cử Hoa Kỳ cứ công bình thẳng thắn, đừng cả nể khi nói về Hồ Chí Minh như từ lâu bị xuyên tạc…”
Như vậy đạo nào cũng có người hành đạo chân chính, người chỉ đội lốt tôn giáo vì lợi riêng. Cộng Sản cũng gia công tiêu diệt hay lũng đoạn Phật giáo y như những tôn giáo khác. Ta thử tìm hiểu lý luận bậc tu chân chính như thế nào và những người học lời Phật nhưng thi hành sai lệch là ai? Thông Điệp Phật Đản 2009 và những Chướng Duyên của Phật giáo.
Hàng năm đến Rằm tháng Tư Âm lịch, thường rơi vào tháng Năm dương lịch, là vào mùa Phật Đản, Phật tử khắp thế giới tổ chức Đại Lễ mừng Sinh Nhật đức Phật Thích Ca.
Đại Lễ Phật Đản 2009 năm nay có hiện tượng nổi bậc là khắp nơi đã tích cực ủng hộ lời kêu gọi “Tháng Năm Biểu Tình Tại Gia, Bất Tuân Dân Sự” của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài {Bauxite], đòi Cộng Sản công bố hai bản hiệp ước biên giới, đòi Việt Cộng phải nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa cho Liên Hiệp Quốc trước khi hết hạn ngày 1 tháng 5 năm 2009.
Lời kêu gọi nầy được Cộng Đồng tị nạn Cộng Sản Việt Nam tại các quốc gia hưởng ứng từ tháng trước, khi tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4, ôn lại tội lỗi 34 năm Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam.
Nhờ sự phản ứng dữ dội của các giới trong và ngoài nước trước sự hèn nhác dâng đất dâng biển của Cộng Sản như vậy mà nhà nước Cộng Sản đã nộp đơn trước khi hết hạn. Nhưng nội dung hồ sơ có bao gồm đủ yếu tố lịch sử và pháp lý để bênh vực cho quyền lợi tổ quốc không thì Việt Cộng chưa cho ai biết, kể cả quốc hội bù nhìn của họ cũng mù tịt!
Trong thông điệp Phật Đản Phật Lịch 2553-2009, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, xử lý Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã giải thích lý do của lời kêu gọi Tháng Năm Bất Tuân Dân Sự đó là vì:
“Tinh thần bao dung, giáo lý Từ bi, Trí tuệ và Hùng lực của Phật giáo đã từng tô bồi, giúp đỡ cho các vương triều Đinh, Lê, Lý, Trần dựng nước, giữ nước và đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ; không để mất một tấc đất tấc biển nào. Vua Lê Thánh Tông của 600 năm trước đã từng nhắc nhở thần dân : “Ta phải giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông !” do Tiền nhân để lại ! Ngày nay chúng ta nghĩ sao, khi hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang rơi vào tay Trung Quốc?
Không những thế mà nguy cơ mất nước đang rình rập thách đố quê hương, ở vùng biên giới và vùng Tây nguyên nội địa, nơi mà nhà cầm quyền Hà Nội, bất chấp dư luận cảnh báo, đã để cho hàng ngàn công nhân Trung Quốc đến sinh cơ lập nghiệp khai thác quặng bô-xít. Liên quan tới nguy biến này, ngày 29-3-2009, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, tôi đã ra Lời Kêu gọi toàn dân Bất tuân dân sự và thực hiện cuộc Biểu tình tại gia trong suốt tháng 5 …”
Đáng lẽ họa mất nước rõ rệt như vậy thì mọi người đều đồng lòng lên tiếng cảnh tỉnh những người Cộng Sản đã từng khoe khoan là yêu nước phải thực sự thúc đẩy toàn dân đứng lên giữ nước như Đại Lão Hòa Thượng Quảng Độ, nhưng tinh thần vô úy đó của vị chân tu lại gặp chướng duyên, không phải từ quốc nội, nơi bị Cộng Sản kềm kẹp, mà là từ hải ngoại, nơi mà quyền tự do ngôn luận được tôn trọng hầu như tuyệt đối.
Một số trong những chướng duyên đó là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và nhóm Phật Giáo ly khai. Cũng nhân danh giáo lý Từ Bi của Phật giáo, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dẫn đoàn tăng thân Phật giáo quốc tế Làng Mai cả trăm người về Việt Nam tham dự Đại Lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc năm 2008 (Vesak 2008 IOC).
Dịp nầy Thiền Sư đã giảng pháp tại Hà Nội nhiều đề tài, trong ấy có chủ đề:
“Đạo Phật của tuổi trẻ: Gieo hạt từ bi, Giữ gìn đất mẹ”. Không hiểu Thiền Sư dạy tuổi trẻ “gieo hạt từ bi” thế nào khi Cộng Sản Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay không ngừng tay bán nước buôn dân và tiêu diệt tôn giáo? Thậm chí chúng thẳng tay xóa sổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ lãnh đạo, nơi Thiền Sư đã từ đó mà xuất thân?
Rõ ràng Thiền Sư Nhất Hạnh rất “từ bi” với hung thần Cộng Sản và bất công với nạn nhân đã bị bọn hung thần nầy cướp của bắt tù đày, phải vượt biên tìm cuộc sống mới nơi xứ người, khi Thiền Sư trả lời câu hỏi trong bài giảng trực tuyến ngày 4 tháng 5 năm 2008 tại tòa báo đảng ViệtNam Net: “Thiền Sư làm gì cho người Việt ở Hoa Kỳ quên đi quá khứ?”. Trả lời [Nguyên văn]: “Có những người rất khó để quên đi quá khứ. Họ không bao giờ tha thứ cho những người đã khiến họ mất đi những địa vị đã có.”
Ai Là Người Ôm Ấp Mãi Hận Thù Quá Khứ?
Tuyên bố với tuổi trẻ trong nước như vậy là chính Thiền Sư gây thêm hận thù quá khứ.
Thử hỏi với tội ác dâng Hoàng Sa Trường Sa từ năm 1958 do Thủ Tướng chính phủ Hồ Chí Minh là Phạm Văn Đồng ký, nạn xuất cảng lao động và trẻ vị thành niên bị bán vào động mãi dâm v.v.., không những tuổi trẻ hải ngoại không hề có quyền lợi gì trước năm 1975 cũng hận thù kẻ bán nước cầu vinh; mà tuổi trẻ trong nước dù dưới sự áp bức của bạo quyền, cũng dám đứng lên vì lòng yêu nước chứ họ có địa vị gì trong quá khứ đâu?
Tội lỗi của đảng Cộng Sản đối với đất nước càng ngày càng sâu đậm đến ngay cả giới trí thức và các tướng nổi danh, từng có địa vị trong chế độ Cộng Sản như Võ Nguyên Giáp, Đồng Sỹ Nguyên (được coi là “kiến trúc sư” của đường mòn Trường Sơn), Bà Nguyễn Thị Bình, cưu Phó Chủ Tịch nước cũng lên tiếng phản đối việc để cho hàng chục ngàn công nhân Trung Cộng khai thác Bauxite, chiếm cái “Xương Sống” Tây Nguyên của Việt Nam.
Vấn đề đáng nói là, mãi đến hiện nay, năm 2009, các “ân nhân” của Cộng Sản nầy đã chẳng những không hề hối hận đã sai lầm, mà họ còn viết sách hãnh diện khoe công trạng đem lại “Hòa Bình”, chấm dứt chiến tranh Đông Dương của mình!!!
Điển hình như trước khi rời Paris về Việt Nam khiến Mỹ bỏ qui chế CPC, cứu giá Cộng Sản, Sư Ông Nhất Hạnh tuyên bố mình không về vì chính trị; Sư Bà Chân Không còn tuyên bố với truyền thông Pháp đại ý rằng tăng thân Làng Mai không có ý đồ chính trị nên không sợ bị chế độ làm khó dễ, chỉ có những người tu mà còn theo màu cờ vàng mới sợ…Tuyên bố như vậy là gián tiếp xác nhận Việt Cộng cáo buộc GHPGVNTN làm chính trị vì muốn giành quyền lợi, nên bị đàn áp là đúng! Luôn thể minh xác việc đồng chí John Kerry ngâm tôm Dự Luật Nhân Quyền HR 2833 cũng chính đáng luôn!
Chỉ tiếc là Sư Bà Chân Không quên rằng sau 30-4-1975, tức 34 năm trước, khi Cộng Sản đền ơn Ông, Bà bằng cướp hết tài sản GHPGVNTN, bắt tù các tăng sĩ, tuyên án tử hình tu sĩ Phật giáo, Bà bèn đi vận động, kêu cứu Cộng Đồng Người Việt tại Paris và các đồng chí phản chiến cũ tại Hoa Kỳ, Sư Bà đã dùng cờ vàng để trang trí phòng họp? Nhưng rồi chẳng một ai thèm biểu tình tiếp cứu.
Phải chăng vì vậy mà sau đó Làng Mai của nhị vị mới “không làm chính trị” chống bạo quyền để vừa lòng Việt Cộng lẫn Mỹ thân Cộng hầu được ân huệ riêng?
Sứ Giả Như Lai Thích Quảng Độ: Ý chí Phật giáo vẫn trường tồn.
Cho nên Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ rất thông suốt thảm cảnh Việt Nam trước những Chướng Duyên Nội, Ngoại thù cũ mà mới khi Ngài minh định trong Thông Điệp Phật Đản 2009 rằng:
“Nhân mùa Phật Đản năm nay, tôi thấy cần tiếp tục khẳng định rằng, GHPGVNTN, trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau cũng vậy, không tranh chấp với bất cứ quyền bính thế tục nào, hay bất cứ ai, mà lịch sử từng chứng kiến qua các thời kỳ Phật giáo cực thịnh.
“GHPGVNTN trước sau chỉ là mối truyền thừa sự nghiệp Giác ngộ và Giải thoát của chư Phật và liệt vị Tổ sư các thời đại ; Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam là sứ giả Như Lai, làm việc của Như Lai cho lý tưởng Từ bi, Trí tuệ, Đại hùng Đại lực của Đức Thế Tôn trên dải đất Việt Nam. GHPGVNTN chưa hề đem thân làm kẻ thừa sai cho bất cứ thế lực ngoại lai hay đảng phái chính trị thế tục nào.
Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng nhân dịp nầy khuyến thỉnh Chư Tôn Đại Đức Tăng Ni và Phật tử: “Càng gặp chướng duyên, chúng ta càng trưởng thành trong tinh thần “Giữ chí phụng đạo, đạo ấy cao sâu”. Càng gặp gian nan, chúng ta càng thể hiện lời Phật dạy : “Hãy lấy ma quân làm đạo bạn, lấy nghịch cảnh làm phương tiện thành tựu sự nghiệp lợi sanh, xem ân sủng như đôi dép rách”. Để cùng nhau nỗ lực vượt thoát mọi chướng ngại, xây dựng lại ngôi nhà Phật giáo mà ngót 34 năm qua ở miền Nam và 54 năm ở miền Bắc, cơ sở Phật giáo bị đánh phá tận gốc rễ, nhưng ý chí Phật giáo vẫn trường tồn..”
Sau năm 1975, hai học giả tu sĩ Phật giáo Đại Đức Thích Tuệ Sỹ (Nhóm Về Nguồn và Thân Hữu Già Lam hiện giờ) và Thích Trí Siêu tức Lê Mạnh Thát bị Cộng Sản tuyên án tử hình, giáo sư Võ Văn Ái, cơ sở Quê Mẹ kiêm Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris (nay là giám đốc Thông Tin Báo Chí Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại), vận động các quốc gia khắp thế giới, cả với Liên Hiệp Quốc can thiệp, nên được toàn mạng sống.
Nay ông Lê Mạnh Thát đứng về phe Phật giáo quốc doanh, tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc năm 2008. Riêng nhóm Phật giáo ly khai Về Nguồn còn cáo buộc ông Võ Văn Ái tạo ra Chỉ dụ số 9 “giả” vì bè phái và vì nhận tiền của Mỹ (làm như Phật giáo quốc doanh của họ tu không cần tiền ai cả vậy. Nếu nhận ai giúp đở là làm tay sai cho người đó thì con nít bây giờ cũng hiểu: thà làm tay sai Mỹ vẫn hơn là làm dân oan của Cộng Sản. Huống hồ gì không đúng như vậy). Nhóm Giao Điểm như Trần Chung Ngọc cũng gièm pha thiếu khôn ngoan kiểu ấy, và còn nhạo báng cơ sở Quê Mẹ, bằng nguyên bài viết tựa đề: “Nhân quyền cho ai và vì ai?”
Xin trả lời ngay Trần Chung Ngọc: Ít nhất là lịch sử đã chứng minh giáo sư Võ Văn Ái tranh đấu đòi Nhân Quyền cho hai tử tội Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) và Tuệ Sỹ (Phạm Văn Thương). Giáo Sư Võ Văn Ái còn ra tay thực sự cứu Người Vượt Biển bằng góp công đắc lực trong việc kiến tạo con tàu “Đảo Ánh Sáng” (L’ile de Lumière) và liên tục trên 30 năm nay làm loa lên tiếng khắp thế giới cho Nhân Quyền Dân Oan cùng kêu gào cho sự phục hoạt của Giáo Hội vì ngay từ lúc mới “Giải Phóng miền Nam”, tất cả các tôn giáo, dĩ nhiên trong đó có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị Ban Tôn Giáo Cộng Sản ép buộc phải nằm dưới sự quản lý của chế độ.
Năm 1977 khi Ngài Huyền Quang và Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ chối khéo là “Chuyện tôn giáo còn phải chờ họp Hội Đồng Lưỡng Viện lại rồi mới quyết định được” , vậy là Nhị vị Hòa Thượng bị Cộng Sản bắt đi lưu đày trên mười năm, sau đó là bị giam lõng tại Tu Viện Nguyên Thiều tới ngày tạ thế. Chính Hòa Thượng Thích Không Tánh, người thực sự được biết những hoạt động của cố Tăng Thống Thích Huyền Quang suốt thời gian từ thời con thuyền Giáo hội PGVNTN bị Cộng Sản quyết chí nhận chìm ấy, Hòa Thượng Không Tánh đã cho biết Ngài Huyền Quang có một trí tuệ phi thường, tiên tri những gì sẽ xảy ra, nên ngay khi còn tỉnh táo đã tự tay ban Chỉ dụ số 9 để nếu vận nước còn ngữa nghiêng, ác đảng còn tiếp tục tiêu diệt thêm những nhân chủng Vô Úy ít ỏi còn lại trong nước, thì ngoài nước còn có Văn phòng II Viện Hóa Đạo để truyền thừa Giáo hội Phật Gíao Việt Nam Thống Nhất độc lập, thật sự vì dân tộc và Phật pháp.
Vậy Chỉ Dụ 9 quả thật là của cố Tăng Thống Thích Huyền Quang chứ không do ai giả mạo như tin đồn. Xác nhận nầy đã được phóng viên Thanh Toàn phỏng vấn Hòa Thượng Thích Không Tánh và đã phát đi phát lại nhiều lần trên hệ thống truyền hình SBTN phổ biến khắp Hoa Kỳ và Canada, cùng trên các luồng sóng phát thanh khác khắp thế giới. Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng từng lên tiếng trên đài Á Châu Tự Do, BBC v.v..
Giáo sư Võ Văn Ái chỉ làm nhiệm vụ thông tin, phát thanh lời của nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cho thế giới hiểu thảm trạng của dân tộc và Phật giáoViệt Nam từ thời Việt Cộng ém nhẹm rồi vu khống vụ tự thiêu của 12 Tăng Ni thuộc Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ vào tháng 11 năm 1975 để phản đối nhà nước đàn áp tín ngưỡng, liên tục trên các diễn đàn quốc tế cho đến tháng 5/2009, lúc mà phái đoàn Việt Cộng phải phúc trình về tình trạng nhân quyền tại Liên Hiệp Quốc tại Geneve.
Còn ông Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc chỉ giỏi tài “Ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”, cùng với nhóm Giao Điểm viết bài khen Thiền Sư Nhất Hạnh cả khi nói sai vụ Bến tre trong bài cầu nguyện cho nạn nhân vụ 911. Nhóm Giao Điểm còn khuyên Hòa Thượng Thích Quảng độ nên bắt tay với Việt Cộng vì “Cộng Sản không phải là kẻ thù mà là Ca Tô Giáo”, chính chúng tôi đã chính thức lên tiếng phản đối bài viết lối “Dùng tôn giáo diệt tôn giáo” của Cộng Sản nầy vì nó trái ngược với giáo lý của Đức Phật, thì Trần Chung Ngọc tích cực bênh vực cây viết nhân danh Phật tử thuộc nhóm Giao Điểm nầy và tặng cho Việt Nữ danh hiệu “Man rợ trí thức”.
Bài sau chúng tôi sẽ trở lại câu chuyện nầy. Ở đây đang nói về “Những Chướng Duyên của Phật giáo” và lời Phật dạy đối với người làm ơn cho kẻ khác mà bị phản bội.
Quả thật giáo sư Võ Văn Ái đã thực hành “Xem ân nghĩa như đôi dép rách”.
Nhớ lại Đại Lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Hà Nội do ông Lê Mạnh Thát được nhà nước ủy thác tổ chức, phóng viên Thanh Toàn của đài Truyền hình SBTN hải ngọai (Saigon Broadcasting Television network) được phép về nước làm phóng sự truyền hình. Hình ảnh thật là “hoành tráng” hơn ở các quốc gia tự do khác. Nhưng khi nghe nhiều người dân trả lời phỏng vấn, nhất là hai người đàn bà, một Bắc và một Nam tuy lời lẽ rất mộc mạc, nhưng đã đầy tính lịch sử y như Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tố cáo tội ác 54+34=84 năm đánh phá Phật giáo tận gốc rễ của Cộng Sản:
Thanh Toàn hỏi một cụ già miền Bắc da mặt nhăn nheo khoản 80 tuổi: “Xin cụ cho biết cảm nghĩ, đi dự lễ Phật Đản có vui không?” Đáp: “Vui quá chứ sao, vì từ bé tới giờ mới được biết có ngày như vầy…” Như vậy có nghĩa là từ Hồ Chí Minh chia hai đất nước bằng hiệp định Genève năm 1945 tới năm 2008=54 năm ở miền Bắc không hề còn Phật giáo để mà có lễ Phật Đản! Rồi như vẫn thấm nhuần nghệ thuật nhồi sọ thời đấu tố của XHCN miền Bắc, hồi sau cụ bà nói thêm: “Nhờ ơn Bác, ơn Đảng mới có ngày nay!”
Khi hỏi bà trẻ hơn, cở tuổi 50, ở miền Nam ra Hà Nội dự lễ, trả lời: tôi được đưa ra đây để đem các bức tượng và hình ảnh sinh hoạt ở trong Nam để trang hoàng khu triển lãm văn hóa Phật Giáo cho thế giới biết; tưởng được vào xem, nhưng đâu có được. Nhưng cũng vui lắm, mà làm sao dạy được cho mấy ông nhà nước biết đạo. Lâu nay con đường dẫn vào chùa quê tôi quá hẹp. Dân làng họp lại chỉ xin một chút đất để làm đường đủ rộng tiện cho dân đi đến chùa. Vậy mà xã trưởng không cho…Bà còn nhấn mạnh: trong Nam mấy ổng đâu biết đến đạo là gì?
Vậy rõ ràng là từ khi xâm chiếm miền Nam đến nay, 2009 là 34 năm, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Viện Hóa Đạo do Hòa Thượng Quảng Độ là Viện Trưởng được hoạt động rất thịnh hành thời Việt Nam Cộng Hòa, nhưng từ năm 1975, dần dần bị tiêu diệt, nếu có các tổ chức tôn giáo Quốc Doanh, như Phật giáo VNTN chỉ là Phật giáo Tiếm Danh mà thôi. Còn Đại Lễ Phật Đản 2008 là của Liên Hiệp Quốc, để lòe thế giới là Cộng Sản có tự do tôn giáo.
Cho nên trong thông điệp Phật Đản 2009, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ viết tiếp: “Trước hoàn cảnh hiện tại, Giáo hội đặc biệt quan tâm đến hiện tình đất nước qua bốn nhận thức.” mà chúng tôi xin tóm lược hai điểm đầu như sau:
1. An ninh quốc phòng và Vẹn toàn lãnh thổ đang bị uy hiếp. Chỉ nhờ vào sức mạnh toàn dân mới vượt qua khỏi cơn nguy biến. Nếu Đảng và Nhà nước không cấp thời cải tổ sâu rộng hệ thống chính trị độc đảng sang thể chế đa đảng để toàn dân và các thành phần dân tộc có thể tham gia cứu nguy quê cha đất tổ.
2. Cần phổ biến ý thức đặt sự sống còn của Tổ quốc và Dân tộc lên trên mọi ý thức hệ cục bộ hay giai cấp.. v.v…
Quê Mẹ Đang Lâm Nguy, Thiền Sư Nhất Hạnh Giữ gìn đất mẹ thế nào?
Không mong gì chính phủ Ngụy Hòa Mỹ hiện nay giúp mình, vì chỉ có “Người Việt mới thực tình thương người Việt”, vậy Thiền Sư Nhất Hạnh làm gì để cứu người Việt đúng với thiên chức một Sứ Giả Như Lai? Thiền Sư Nhất Hạnh dạy gì với chủ đề “Giữ gìn đất mẹ” nhân mùa xuân mà năm 1975 Cộng Sản gọi là “Mùa Xuân đại thắng” nầy? Trong khi Hòa Thượng Thích Quảng Độ ở trong lòng địch mà từ “Mùa Xuân đại bại” 30 tháng 4 năm 1975 đến nay vẫn kiên trì chống tội ác, hiện giờ vẫn dám mạnh dạn kêu gọi Biểu Tình Tại Gia chống Cộng Sản để “cứu nguy quê cha đất tổ”; mọi người cần “đặt sự sống còn của Tổ quốc và Dân tộc lên trên mọi ý thức hệ cục bộ”; còn Thiền Sư Nhất Hạnh thông dong hải ngoại lại muốn hòa hợp với Cộng Sản để bành trướng dòng Tiếp Hiện của riêng mình mà bênh vực kẻ bán nước ào ào!.
Điều khổ đau của dân tộc và đạo pháp là cho đến hiện nay, Sư Ông Nhất Hạnh vẫn tiếp tục tin tưởng hành động phản chiến kêu gọi hòa bình thiên Cộng của mình là chính nghĩa, các chuyến về nước bắt tay với bạo quyền Cộng Sản là chính pháp; ai làm ngược lại như Hòa Thượng Quảng Độ là “Không biết bao dung”, là “Còn chứa chấp hận thù”. Còn Trần Chung Ngọc cũng đang ở Mỹ, trước 1975 nhờ Việt Nam Cộng Hòa cho đi học Mỹ, nhưng thù hận Mỹ và phe Quốc Gia, mà sùng bái Cờ Đỏ máu.
Phải chăng Sư Ông Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai, nhóm Giao Điểm, Về Nguồn, Thân Hữu Già Lam là “Chướng Duyên”, “Chướng Nghiệp” của Phật giáo”?
Còn ai đủ khả năng làm “loa” kêu gọi cho Quyền Làm Người Việt Nam vang vội khắp thế giới và kiên trì như giáo sư Võ Văn Ái? Trước hiểm họa đất nước bị giặc ngoại xâm như hiện nay, còn ai xứng đáng lèo lái con thuyền Phật Giáo Việt Nam với đầy đủ Từ, Bi, Trí, Dũng và tinh thần vô úy có chiều dài hơn 30 năm chịu kiếp “Tù không tội” mà vẫn không sờn lòng như bậc Thánh Tăng Thích Quảng Độ?
Nguyễn Việt Nữ
(Mùa Phật Đản 2009)

Không có nhận xét nào: