Dân
tộc Việt ảnh hưởng tam giáo từ thời xa xưa hàng ngàn năm: Phật-Nho-Lão.
Đạo Phật truyền bá sang Việt Nam vào thời cổ Việt đầu Công nguyên, do
các sư người Ấn Độ đến từ đường biển hay qua ngã Trung Hoa. Ảnh hưởng
mạnh từ miền Bắc, có thể nói Bắc Ninh là giao điểm những con đường lớn,
nơi tiếp thu đạo Phật và trở thành trung tâm Phật giáo thời bấy giờ,
theo thuyết của Đức Phật Thích Ca (Sakya) con người tự tu tâm để giải
thoát cho chính mình, mọi người đều tự do và bình đẳng…
Cách
Hà Nội 30 km có chùa Dâu xây từ thế kỷ thứ 3. Trong chùa thờ pho tượng
lớn nữ thần Pháp Vân (nữ thần Mây) ngồi trên Tòa sen, vì vậy chùa được
gọi Pháp Vân tự, thuộc huyện Thuận Thành, trong khuôn viên chùa có tháp
nổi tiếng xây từ thế kỷ thứ 6. Tháp có tên Hòa Phong những di tích lịch
sử về Phật giáo lâu đời còn lại ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Thiên
Chúa giáo đến Á Châu từ thế kỷ thứ 16, các giáo sĩ Tây phương đến lẻ
tẻ, hoạt động thuần túy tôn giáo thuộc nhiều quốc tịch khác nhau Bồ Đào
Nha (Portugal), Tây Ban Nha (Spain), Pháp (France), Hoà Lan
(Netherlands)… Người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ là giáo sĩ Dòng
Tên người Bố Đồ Nha Francecesco de Pina (1585-1625) kế tiếp Giáo sĩ
Alexandre de Rohdes người có công làm cuốn tự điển “Dictionarium
Annamitcum Lusitanum et Latium”.
Ngày
xưa giới tu sĩ được đào tạo trong thiền viện có khả năng và đạo đức,
nên được các triều đại kính trọng, mời ra giúp nước. Đó là những Thiền
sư: Đỗ Pháp Thuận (914-990), Ngô Châu Lưu (959-1011) thiền sư họ Nguyễn
pháp danh Vạn Hạnh quê ở Cổ Pháp Bắc Ninh, tu ở chùa Lục Tổ, thọ giới
với sư Định Huệ (không rõ ngày sinh nhưng mất năm Mậu Ngọ 30/06/1018).
Tuy xuất gia nhưng ngài vẫn nghĩ đến việc nước, cũng như chống ngoại
xâm phương Bắc.
Vua
Lê Đại Hành mời sư Vạn Hạnh làm cố vấn trong việc cai trị. Cho đến cuối
đời nhà Lê suy mạt, Lê Long Đĩnh trị vì 4 năm từ (1005-1009) thì qua
đời, con còn nhỏ, nhà nước hoạn nạn. Lúc đó Lý Công Uẩn làm quan Thân
vệ, tướng Đào Cam Mộc họp các quan trong triều tôn lập Lý Công Uẩn là
người nhân đức, công bằng lên làm vua (lật đổ nhà tiền Lê trong việc
nầy có sự góp tay của Sư Vạn Hạnh) dựng lên nhà Lý (1010-1225).
Phật
giáo dưới thời nhà Lý rất thịnh vượng, các bộ Việt Sử đều viết tương
truyền Lý Công Uẩn sinh năm (974-1028) là vị vua khai sáng nhà Lý trị
vì (1010-1028). Thân mẫu là bà Phạm đi viếng Chùa Tiêu Sơn, nằm mộng
thấy gặp gỡ thần nhân, rồi thụ thai (?) sinh ra ông, đến năm lên 3
tuổi, mẹ ông cho thiền sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp làm con nuôi, và
được đặt tên là Lý Công Uẩn.
Lý
Công Uẩn lên ngôi là Lý Thái Tổ năm 1010. Nhà vua quyết định dời đô từ
Hoa Lư ra thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Thăng Long qua các
triều đại từng bị thay đổi tên: năm 1397 Hồ Quý Ly đổi tên Đông Kinh,
năm 1428 Lê Lợi đổi thành Đông Đô, mãi cho đến năm 1831 Vua Minh Mạng
đổi tên là Hà Nội. Qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Hà Nội được xây dựng
và phát triển thành một kinh thành với nhiều danh lam thắng cảnh thơ
mộng, gồm 600 ngôi chùa, đình, miếu nguy nga tráng lệ. Hà Nội ngày nay
còn lưu giữ 2000 di tích lịch sử văn hoá. Những di tích nầy ghi lại nền
văn minh của dân tộc Việt cũng như quá trình dựng nước và giữ nước.
Các
triều đại của nhà Lý trải qua 216 năm được 9 đời vua, nhiều chùa được
xây cất, ngôi chùa nổi tiếng là chùa Diên Hựu xây năm 1049 theo truyền
thuyết, Lý Thái Tông trị vì (1028- 1054). Một đêm nằm mơ thấy Phật Quan
Âm ngồi trên toà sen trong hồ nước hình vuông phía tây thành Thăng
Long, dắt nhà vua cùng lên, nên vua sai lập cái chùa nhỏ như hoa sen để
thờ ở Kinh đô, tức chùa Một Cột lưu truyền đến ngày nay.
Đến
triều đại nhà Trần (kéo dài từ 1225-1400), vua Trần Nhân Tông trị vì từ
1279 đến 1293 và truyền ngôi cho con Trần Anh Tông từ 1293 đến 1314.
Năm 1295 Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia đi tu tại núi Vũ Lâm,
huyện An Khánh, Ninh Bình, năm kỷ Hợi 1299 Thượng hoàng lên tu ở núi
Yên Tử nay thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí. Nơi đây là trung
tâm Phật Giáo của Đại Việt từ thời xa xưa. Trúc Lâm Đại Sĩ phát triển
ra phái Trúc Lâm lưu truyền cho tới ngày nay. Thượng Hoàng Trần Nhân
Tông đã gả công chúa Huyền Trân của em vua Trần Anh Tông cho vua Chiêm
Thành. Năm 1306 vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) cuới
công chúa Huyền Trân, sính lễ là hai châu Ô và Lý…
Các
tôn giáo tại Việt Nam đều trải qua những thời hưng thịnh, Phật giáo,
Thiên Chúa giáo, Lão giáo, Nho giáo... đã đóng góp một vai trò quan
trọng, trong vấn đề dựng nước, cải thiện đời sống của xã hội. Khổng
giáo cũng từng khuyên “trị dân với lòng nhân và lễ không phải bằng bạo
lực, lãnh đạo là dẫn dắt dẫn, không phải để hành hạ, để giết dân!… Đừng
làm cho người khác cái gì mà mình không muốn người khác làm cho mình”.
Phật
giáo có truyền thống lâu đời, ảnh hưởng sâu đậm đời sống dân tộc. Trước
1975 cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm bom đạn tàn phá quê hương, nhưng ở
miền Nam dưới thời chính phủ Việt Nam Cộng Hoà các tôn giáo vẫn được
phát triển mạnh. Chùa Chiền, nhà Thờ được xây dựng khắp nơi, nhiều tu
viện mở ra để đào tạo tu sĩ, không bị nhập ngũ theo lệnh động viên...
Các tôn giáo đều có tài sản, bất động sản riêng, các trường Đại Học lớn
như Vạn Hạnh Sài Gòn, Viện Đại Học chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt, Đại học
Nông Nghiệp Cao Đài Tây Ninh, Đại học Hòa Hảo ở Long Xuyên… Nhiều trung
tâm văn hoá và từ thiện…
Ngược
lại miền Bắc dưới xã hội chủ nghiã, tôn giáo không được phát triển.
Trong khi Chùa bỏ trống không có Tăng sĩ, thì lại cho xây dựng hết sức
tốn kém lăng ướp xác Hồ Chí Minh trên quảng trường Ba Đình, tôn thờ
người theo chủ thuyết vô thần Marx-Lénin, vừa mâu thuẫn, vừa đi ngược
lại truyền thống văn hoá thờ phụng của dân tộc, một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho các giá trị đạo đức của đất nước đảo lộn, suy đồi.
Tôn
giáo ở miền Nam hoạt động tự do, nhưng tiếc thay bị lợi dụng, tuyên
truyền và xâm nhập của cán bộ cộng sản, xách động gây một thời sóng
gió, đức tin, tín ngưỡng bị lung lay, bàn thờ Phật vốn từ xưa trang
nghiêm tôn kính bị đưa xuống đường… Từ năm 1964 Phật Giáo Việt Nam chia
làm hai: Giáo Hội Phật Giáo Ấn -Quang, và Việt Nam Quốc Tự…
Ngày
04/01/1964, HTT Thích Trí Quang thế danh Phạm Trí Quang sinh năm 1924
tại Quảng Bình được bầu làm Chánh thư ký Viện Tăng Thống Giáo Hội Việt
Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), cũng là người lãnh đạo các phong trào tranh
đấu xuống đường chống chế độ VNCH…
Cuộc
chiến chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, thành phần lợi dụng tôn
giáo “rưả tay gác kiếm” ra đời hay tiếp tục núp dưới bóng từ bi.
Ngày
11/11/1977, Phạm Văn Đồng ban hành Nghi Quyết số 297 kiểm soát quyền tự
do tín ngưỡng và hành đạo. Theo dư luận, chính Phật giáo trong thời
tranh đấu, dù sao cũng góp phần ít nhiều cho thắng lợi chính trị của
cộng sản (CS), thậm chí có nhiều chùa che giấu cán bộ CS nằm vùng, (nay
bị phản bội)…
Hòa
Thượng Thích Quảng Độ giữ chức vụ Tổng Thư Ký viện Hóa Đạo GHPGVNTN đã
lên tiếng phản đối chế độ cộng sản, bị bắt lần đầu tiên vào năm 1977,
biệt giam đến tháng 12/1978 và bị đưa ra tòa kết án tội “phá hoại đoàn
kết dân tộc và lợi dụng tôn giáo để phá rối trật tự công cộng”. Tháng
2/1982, Ngài bị bắt và đưa về quản thúc tại nơi sinh quán ở Vũ Ðoài,
tỉnh Thái Bình. Ngài được trả tự do năm 1992, nhưng tháng 11/1994 ngài
bị bắt khi tổ chức cuộc ủy lạo đồng bào nạn nhân lũ lụt ở miền Nam. Năm
1998 được thả nhưng bị quản thúc tại Thanh Minh Thiền Viện.
Chính
quyền CSVN muốn dẹp ảnh hưởng phong trào tranh đấu của Phật giáo có thể
xảy ra? Từ năm 1980-1981 tìm cách sát nhập GHPGVNTN vào Giáo Hội Phật
Giáo do nhà nước kiểm soát, mời cố Hòa Thượng Trí Thủ (1909-1984) thế
danh Nguyễn Văn Kính gốc Quảng Trị từ 1973 làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
GHPGVNTN, đưa Giáo Hội này sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước.
Hòa
Thượng Thích Quảng Độ, HT Thích Huyền Quang và nhiều tăng sĩ khác của
GHPGVNTN không đồng ý, đã chống đối mãnh liệt, vẫn sinh hoạt riêng
không gia nhập Giáo Hội của nhà nước. Đại Hội PGVNTN kỳ 8 tháng 5 năm
1999, HTT Quảng Độ được bầu Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất, dù bị cấm nhưng đã thành lập được 20 Ban Đại Diện
GHPGVNTN tại các tỉnh miền Nam và Trung.
Chính
quyền CSVN muốn thống nhất Phật giáo về một mối gọi là Giáo Hội quốc
doanh. Những sinh hoạt của GHPGVNTN là bất hợp pháp, ngoài vòng pháp
luật. Tăng sĩ chống lại đều bị bắt, bị cô lập quản thúc. Hai người được
thế giới biết đến là HTT Quảng Độ và HTT Huyền Quang.
Năm
1992 là Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN là cố HTT Thích Đôn Hậu viên tịch.
HT Thích Huyền Quang thế danh Lê Đình Nhàn sinh năm 1919 tại Bình Định,
chính thức đảm nhận quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm xử lý Viện Tăng
Thống gọi Đệ Tứ Tăng Thống. Ngài đã gửi đi hàng loạt văn thư phê phán
chế độ Cộng Sản Việt Nam về cái mà họ gọi là “Ðổi Mới”, khiến Ngài càng
gặp nhiều khó khăn với chế độ. Bị quản chế lâu năm ở chùa Hội Phước
Quảng Ngãi đến tu viện Nguyên Thiều Bình Định. Ngài không được tự do đi
lại, nhưng tiếng nói của ngài vẫn bay xa, muôn thuở có giá trị vì tiếng
nói của lương tâm và đạo lý.
Dù
bị cô lập, bị tù đày hai vị cao tăng của Giáo Hội là Đại lão Hoà Thượng
Thích (HTT) Quảng Độ và Đức Tăng Thống HTT Huyền Quang vẫn tiếp tục làm
việc và tranh đấu với danh nghiã của GHPGVNTN trong nước, và hải ngoại
thành lập văn phòng II Viện Hóa Đạo có phòng thông tin phật giáo Quốc
Tế có trụ sở tại Paris, rất nhiều cao tăng danh tiếng ở hải ngoại ủng
hộ.
Viện
Trưởng Viện Hoá Đạo Đại lão Hòa thượng Quảng Ðộ thế danh là Đặng Phúc
Tuệ, sinh năm 1928, là nhà thơ, dịch giả, từng là giảng sư tại Ðại Học
Vạn Hạnh trước tháng 4/1975. Hòa Thượng Thích Quảng Độ kêu gọi nhà cầm
quyền CS Việt Nam tham gia cuộc đối thoại, ngài luôn đấu tranh ôn hòa
bênh vực cho tự do tôn giáo và nhân quyền, không muốn Giáo Hội PGVNTN
trở thành tay sai cho đảng CSVN.
Ngày
24/07/2002 tại New York, trong số 37 người thuộc 19 quốc gia được tổ
chức Human Right Watch trao giải nhân quyền Hemam/Hammett, 5 người Việt
Nam đã được chọn có Hòa thượng Thích Quảng Ðộ. Giải này có từ năm 1989,
được thực hiện với di sản của hai nhà văn quá cố Hoa Kỳ là Lillian
Hellman (1905-1984) và Dashiell Hammett (1894-1961) nhằm hỗ trợ cho
những nhà văn trên thế giới đang bị truy bức chính trị.
Năm
2006, HTT Quảng Độ được trao giải Rafto Foundation for Human Rights của
Na Uy (Norway). Chủ tịch Arne Lynngard, sáng hội Rafto (của cố giáo sư
Thordf Rafto 1922-1986), giải thích lý do lại trao giải thưởng Rafto
lần thứ 20 năm 2006 cho Hòa thượng Thích Quảng Độ: “chúng tôi đánh giá
cao những khó khăn, các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam đang đối diện,
HTTQuảng Độ quyết tâm đấu tranh ôn hòa cho tự do dân chủ...”.
Cuối
tháng 10 năm 2006, HTT Quảng Độ không rời Việt Nam đến nhận giải Rafto
tại Na Uy. Ngài e ngại chính quyền Việt Nam sẽ buộc ngài phải sống lưu
vong, giống trường hợp cố Giám Mục Hồng y Nguyễn Văn Thuận vì phục vụ
Giáo Hội của Chúa Kitô, với giáo huấn Vaticanô II đưa kitô giáo vào
trong cuộcc sống con người, mời gọi những Linh mục tương lai nên thực
thi mục vụ trong tinh thần dấn thân giúp đỡ cho những người nghèo. Dưới
chế độ CSVN ngài bị 13 năm tù, 9 năm giam cấm cố và được thả tự do năm
1988, phải chịu lệnh quản chế ở Hà Nội đến 1989 thì được phép xuất
ngoại sang Australia vì bệnh. Ngài sang Roma tháng Tư 1990 và chính
quyền CSVN không cho Ngài trở về lại Việt Nam (1). HTT Quảng Độ đã uỷ
nhiệm cho ông Võ Văn Ái, phát ngôn viên Giáo hội phật giáo Việt Nam
thống nhất ở hải ngoại, đại diện nhận giải thưởng danh dự này.
Những
năm qua, HTT Quảng Độ đều được đề cử trong danh sách nhận giải Nobel
hòa bình, dù được hay không cũng là một vinh dự, vì ngài hoạt động cho
tự do và hòa bình đòi hỏi về vấn đề nhân quyền, giống như hoạt động của
Dalai Lama và bà Daw Aung San Suu Kyi của Miến Điện (Myamar). Nhưng
giải Nobel hòa bình năm 2007 chú trọng đến phần thay đổi khí hậu, trái
đất càng ngày nóng hơn, ảnh hưởng đời sống nhân loại nguy cơ gia tăng
xung đột và chiến tranh bạo lực, muốn có hòa bình cho nhân loại phải
bảo vệ môi sinh trái đất. Cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore, vận động chiến
dịch đối phó với thay đổi khí hậu và Uỷ Ban Liên chính phủ và thay đổi
khí hậu của Liên Hiệp Quốc, IPCC, được trao giải Nobel Hoà bình 2007.
Các
quốc gia trên thế giới đều tôn trọng tự do tín ngưỡng, bởi vì tôn giáo
có vai trò quan trọng trong xã hộ̣i từ xưa tới nay, tôn giáo sinh hoạt
độc lập không bị chính quyền cưỡng ép các tôn giáo phải hoạt động theo
đường lối của chính quyền. Nhìn lại Việt Nam 32 năm qua, nếu các hoạt
động tôn giáo không nằm trong khuôn khổ của các Giáo hội do nhà nước
thành lập, không tham gia vào Mặt Trận Tổ Quốc, đều bị kết tội là “phản
động”.
Nếu
không có tiếng nói bất khuất của Đại Lão HTT Quảng Độ thì thế giới sẽ
không quan tâm đến trình trạng tôn giáo bị đàn áp... Vì thế dư luận
quốc tế quan tâm đến tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Việt Nam từng bị
đưa vào danh sách các nước gây quan ngại về tự do tôn giáo (CPC/
Countries of Particular Concern), như các nước: Miến Điện, Trung Quốc,
Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan, Eritrea và Saudi Arabia.
Trong
những tháng qua, trên các phương tiện truyền thông của nhà nước, 600 tờ
báo quốc doanh đều đăng những bài viết kết tội HTT Quảng Độ “lôi kéo
xúi dục kích động nhiều người tham gia biểu tình chống đảng, chống nhà
nước, móc ngoặc với bọn phản động ở nước ngoài...”.
Chính
những bài báo nầy người dân trong nước biết, có những cuộc biểu tình
kêu oan dưới chế độ độc tài CS cai trị, từ trước tới nay bị bưng bít,
chưa bao giờ có báo nào tường trình về các cuộc biểu tình như vậy.
Chính quyền giải tán các cuộc biểu tình lớn, nhưng ngày nào ở Sài Gòn
vẫn còn những đoàn người các tỉnh về Sài Gòn biểu tình bất bạo động,
bất chấp nắng mưa, đói khát…
Người
dân các tỉnh bị bóc lột đàn áp, bị mất đất, mất tài sản không được đền
bù chính đáng, được gọi là dân oan. Không phải mới đây mà đã nhiều năm
qua, ngay ở vườn hoa Xuân Thưởng Hà Nội ngày nào cũng có người biểu
tình đòi chính phủ giải quyết cái nạn cường hào, ác bá ở khắp nơi,
nhiều người suốt đời hy sinh cho đảng, có công nhiều huy chương, nhưng
về hưu hết thế lực bị đàn áp quay sang chống đảng tham gia biểu tình,
đã làm cho nhà nước CS phải lúng túng đau đầu… Đại lão Hoà thượng Thích
Quảng Độ đứng về phía những người bị đàn áp, ngài muốn có dân chủ, pháp
quyền, tự do ngôn luận.
Ngài
đã đến với người dân đi khiếu kiện Sài Gòn cũng như cử người đến Hà
Nội để ủy lạo dân oan chia sẻ với họ, bởi vì chính ngài cũng là một
nạn nhân. Nhà nước CS từ lâu muốn loại bỏ HTT Quảng Độ ra khỏi mọi sinh
hoạt, nhưng không thể thi hành, vì ngài đã được các phái đoàn quốc tế
thường xuyên đến thăm, và nhận những giải thưởng giá trị về nhân quyền.
Ngài trở thành người của quốc tế đấu tranh cho tự do và nhân quyền.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tồn tại đến nay, do hai vị cao
tăng là: Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, và Đức Đệ Tứ Tăng Thống
Thích Huyền Quang lèo lái con thuyền vượt qua nhiều giông bão. Cũng nhờ
những sinh hoạt của tất cả các đoàn thể người Việt tị nạn hải ngoại,
suốt 32 năm qua đã tranh đấu, gây ảnh hưởng với các quốc gia trên thế
giới, cùng hỗ trợ cho GHPGVNTH được trường tồn.
Nhìn
chung Giáo Hội các Tôn Giáo tại Việt Nam, gặp nhiều khó khăn với những
vấn nạn phức tạp nội bộ chia rẽ, bị CS mua chuộc phá rối… Lịch sử sẽ
phê phán giữa thiện và ác, giữa độc tài và tự do. Tôn giáo phải được
bảo vệ tốt đẹp theo truyền thống đã có từ ngàn năm trong lòng dân tộc,
không thể bị vẩn đục giữa Giáo hội và Thế quyền. Chính quyền CSVN lúc
đầu đàn áp, nay đổi chiến thuật đưa vấn đề quyền lợi, để chiêu dụ những
người ham danh thụ hưởng…
Con chuột chết vì bị bẫy, ruồi chết vì mật, người chết vì háo danh và quyền lực.
Nguyễn Quý Đại.
02-01-2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét