Người Trai Oai Hùng Đã Tàn Nhưng Không Phế.
“Sau ngày 30 tháng 4, 1975 gia đình tôi sống khổ sở vì không có công ăn việc làm. Chúng tôi trở nên những kẻ nghèo đói trong xã hội mới. Chúng tôi đành phải sống tạm trong khu nghĩa địa, hằng ngày tôi lê đi bán vé số nuôi mấy đứa con dại. Sống giữa đám mồ mã ẩm thấp, hai vợ chồng bị mắc bịnh lao. Con nhỏ đau ốm èo uột.
“Sau ngày 30 tháng 4, 1975 gia đình tôi sống khổ sở vì không có công ăn việc làm. Chúng tôi trở nên những kẻ nghèo đói trong xã hội mới. Chúng tôi đành phải sống tạm trong khu nghĩa địa, hằng ngày tôi lê đi bán vé số nuôi mấy đứa con dại. Sống giữa đám mồ mã ẩm thấp, hai vợ chồng bị mắc bịnh lao. Con nhỏ đau ốm èo uột.
Vừa
rồi đứa con nhỏ 6 tuổi do suy dinh dưỡng bị lao màng bụng, viêm bàng
quang với thận rỉ máu phải đi điều trị ở bịnh viện nhi đồng. Thế là bao
nhiêu vật dụng trong gia đình phải đem đi bán để lo cho nó. Nhưng vì
không đủ tiền cho nên vợ tôi phải ôm con trốn về. Chưa được bao lâu
bệnh tình của nó trở nên nguy kịch cho nên lại phải đưa vào bệnh viện
cấp cứu ở trung tâm lao Phạm Ngọc Thạch. Nhưng không còn kịp nữa.
Cháu
đã qua đời. Nửa đêm đem xác con về nhưng chúng tôi kiệt quệ không có
tiền mua đất mướn người để chôn cho cháu. Người hàng xóm thương tình
cho ván đóng hòm rồi lén lút chôn cháu ở ven hông vườn nhà. Bây giờ tôi
không còn đủ sức để đi bán dạo nữa. Đành phó mặc số phận cho vợ con. Vợ
tôi cũng mang bịnh như tôi nhưng bà cũng phải dắt con đi bán vé số để
kiếm sống cho gia đình. Bây giờ chỉ biết cầm cự được ngày nào hay ngày
đó”.
Đó là tình
hình bi đát của gia đình thương phế binh Nguyễn Văn Hổ, hiện cư ngụ tại
huyện Châu Thành, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Trước 75, anh
phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân. Trong một cuộc hành quân nhằm
giải vây cho một đơn vị bạn đang bị bao vây ở mật khu Tống Lê Chân anh
bị thương, bị trúng đạn vào đầu. Tuy may mắn không chết nhưng anh bị
liệt nửa thân người. Ngày 30/1/75 anh được giải ngũ vĩnh viễn với mức
độ tàn phế 90% nhưng chưa kịp được hưởng trợ cấp thương binh của chính
phủ Sài Gòn thì nước mất và nhà anh tan.
Một
trường hợp khác là TPB Đào Ngọc Khanh trước thuộc tiểu đoàn 8 TQLC. Anh
bị thương ngày 31/3/73 tại tiền đồn Quảng Trị. Anh bị bắt làm tù binh
và bị đưa đi tù ở miền Bắc. Được trả về sau ngày 30/3/75 với một chân
trái còn lại, trôi nổi theo cuộc sống với những nghề thấp hèn nhất của
xã hội là bán nhang và bán vé số.
Trong
số những hoàn cảnh đau xót nhất xảy ra sau ngày 30 tháng Tư 1975 tại
Sài Gòn là các TPB của quân lực VNCH bị đuổi ra khỏi bệnh viện Cộng Hòa
dù cho những vết thương chiến tranh của họ vẫn đang còn rỉ máu. Từng
đoàn thương binh, nối gót dắt dìu ra cổng. Người sáng mắt dẫn đường kẻ
mù loà, người bị thương nhẹ cõng người bị thương nặng. Khắp lối ra vào,
máu me vương vãi, nước mắt quanh tròng những nạn nhân bị bỏ rơi, không
thượng cấp, không đồng đội và cũng không còn hậu phương. Một số sau đó
chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn,
vì vết thương không được tiếp tục điều trị.
Trong
đoàn người bất hạnh đó có TPB Nguyễn Đơn. Anh trước là thiếu uý Trung
Đội trưởng Địa Phương Quân, bị thương ngày 2/4/1975 tại chi khu Tam
Bình. Anh bị cụt 2 chân trên đầu gối và mức độ tàn phế là 100%. Anh may
mắn được sống còn nhưng hiện đang sống thiếu thốn, sống khốn khổ và
sống trong một hoàn cảnh khắc nghiệt cùng cha mẹ già đã hơn 80 tuổi và
đứa em gái 45 tuổi bị bịnh câm điếc bẩm sinh.
Đó
là ba trường hợp thương tâm trong hàng trăm ngàn "mảnh đời rách nát"
còn lại ở VN mà tôi biết được qua hội Tình Thương Foundation. Thương
Phế Binh QLVNCH, các anh là ai? Trường hợp thứ nhất, TPB Nguyễn Văn Hổ
sanh năm 1955. Trường hợp thứ hai, TPB Đào Ngọc Khanh sanh năm 1953 và
trường hợp thứ ba TPB Nguyễn Đơn sanh năm 1954. Có nghĩa là lúc các anh
bị thương và lúc nước mất nhà tan các anh chỉ đang ở độ tuổi đôi mươi.
Các anh là những thanh niên lớn lên trong giai đoạn lịch sử nghiệt ngã,
oan khiêng đang bị họa Cộng Sản xâm lược âm mưu thôn tính toàn vẹn lãnh
thổ nên các anh đã phải lên đường thi hành bổn phận người trai thời
chiến. Các anh chiến đấu vì lý tưởng, các anh chiến đấu để gìn giữ từng
tấc đất của thôn xóm, của quê hương.
Các
anh là những người thanh niên tuổi trẻ tạm gác bút nghiêng, rời sân
trường để bước vào quân trường cho tới khi các anh thề một lòng Vị Quốc
Vong Thân. Khoác lên mình bộ đồ trận, mang lên lưng mình ba lô hành
quân nặng nề nặng tình quê hương và đội lên đầu mình chiếc nón sắc xanh
tròn, xanh như tuổi xanh của các anh và căng tròn như tấm lòng sắc son
của các anh đối với dân tộc. Các anh đã trở thành người lính thực thụ.
Các anh trưởng thành cùng với vận nước. Các anh bước đi tay bồng súng
và chân mang giày trận làm kinh kha đi chống giặc giữ quê hương. Các
anh đã đi qua và dẫm nát những địa danh như Kontum, Pleime, Ashau,
Ia-Drang, ... Anh đã dự những trận chiến oai hùng từ Đồng Xoài, Ấp Bắc,
Bình Giã đến Tống Lê Chân, Bình Long, An Lộc để giữ cho chính nghĩa
quốc gia tự do được tồn tại, để giữ cho người dân được sống no ấm ở hậu
phương.
Nhưng
lịch sử đã sang trang tháng 4 năm 75. Hình tượng người lính VNCH bị
giật đỗ rơi xuống vỡ tan trên đường phố, nhưng từ đó các anh anh thực
sự đứng lên oai hùng trong trái tim người dân miền Nam. Từ ngày Sàigòn
bị cưỡng chiếm và từ khi những bộ đội CS chập chững, ngỡ ngàng và ngốc
nghếch bước chân vào thành phố người dân mới thật sự hiểu được giá trị
của người lính quốc gia. Hai mươi năm chiến tranh với hàng trăm ngàn
sinh mạng người lính cùng vài trăm ngàn thương binh đã để lại những
phần thân thể của họ trên những chiến trường khốc liệt của miền Nam.
Những
giờ phút cuối cùng, dầu biết nước sắp mất, chết chỉ uổng mạng nhưng họ
vẫn hiên ngang chiến đấu ở những cứ điểm cuối cùng của miền Nam từ
Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi
, Biên Hòa đến Sài Gòn. Tất cả là những chiến tích để đời và lưu danh
thiên cổ trong dòng sử Việt. Ba mươi bốn năm qua rồi, chúng ta đã làm
gì để tri ân người lính VNCH? Chúng ta, những người tỵ nạn tầm gửi, đã
từng sống nhờ trên máu xương của người lính miền Nam.
Ba
mươi bốn năm qua rồi, đã đến lúc chúng ta phải vinh danh người lính
VNCH. Những ai còn sống sót tới ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước
mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Chúng ta hãnh diện vì có được những anh
hùng làm rạng danh nước Việt. Họ đáng được ca tụng và kính phục. Họ đã
nằm xuống vì quê hương dân tộc. Họ đã để lại một phần thân thể hay cả
thân xác trên quê hương vì chính nghĩa quốc gia tự do. Ngày nay, vẫn
còn nhiều thương phế binh lê lết phần thân thể còn lại của mình trên
khắp các nẻo đường đất nước. Nhìn thấy những hình hài không nguyên vẹn
ấy, có phút giây nào chúng ta nghĩ tới và tự hỏi “Họ là ai” hay không?
Họ
là những người lính tàn phế sau cuộc chiến nay phải sống những cuộc đời
cơ cực, lang thang bên lề cuộc đời, rách nát và bơ vơ như một người xa
lạ. Họ là những người lính oai hùng trong thời chiến và nay là người
tù, người tàn phế trong thời bình. Họ “tàn nhưng không phế”. Những TPB
bị bỏ lại sau cuộc chiến chẳng những bị bỏ rơi trong bệnh tật và nghèo
đói cùng cực, không được giúp đỡ, mà trái lại họ còn bị bạo quyền CS
hất hủi, trù dập, chà đạp lên danh dự và xua đuổi ra khỏi những sinh
hoạt xã hội bình thường. Họ bị lưu đày trên chính quê hương họ.
Người
CS đẩy họ xuống đáy trầm luân. Có ai trong chúng ta, có người chưa từng
đóng góp gì cho chính nghĩa quốc gia, cảm thấy thẹn với mình khi đã đôi
lần tỏ ra hãnh diện vì mình nói tiếng Anh lưu loát hơn họ, nhà to cửa
rông, xe đẹp và con cái thành tài hơn họ? Có ai trong chúng ta sẵn sàng
hy sinh một bữa tiệc đắt tiền ở một nhà hàng danh tiếng, hy sinh một
hai tấm vé vào cửa của một đại nhạc hội tưng bừng, hy sinh một buổi
tiệc vui chơi cùng bè bạn, một buổi tiệc dạ vũ để bỏ tiền ra đóng góp
một cách thiết thực hầu xoa dịu phần nào nỗi đau khổ và nhọc nhằn của
người TPB bất hạnh?
Chúng
ta người Việt hải ngoại là những người được may mắn hơn họ, được sống
trong tự do và sung túc. Chúng ta đã mất nước, chúng ta đã mất cả nơi
chốn dung thân để phải tha hương lưu lạc khắp mọi phương trời. Chúng ta
đã mất mát nhiều thứ, gần như tất cả, nhưng những người thương binh như
các anh còn mất mát nhiều hơn nữa, các anh đã mất một phần thân thể,
mất tuổi trẻ, mất tình yêu và cả tình người. Trong cuộc đời này không
có điều gì cao thượng hơn là hy sinh cuộc đời mình để cho người khác
được sống. Vậy mà các anh đã hy sinh. Sự hy sinh của các anh là sự hy
sinh chính đáng, cao quý và đáng kính trọng.
Chúng
ta nên có ý thức trách nhiệm giúp đỡ những người TPB và gia đình của
họ, bởi chính họ đã một thời vì lý tưởng Tự Do, vì chính nghĩa Quốc Gia
và vì sự an bình của quê hương mà chiến đấu và hy sinh. Chúng ta không
những không nên làm ngơ mà trái lại phải biết tri ân và đặt họ ở một
địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải được hưởng từ lâu. Chúng ta hãy đem
lại cho những người Thương Phế Binh VNCH ở quê nhà một niềm tin, để họ
biết rằng bên kia bờ đại dương, những bạn đồng ngũ, đồng bào và cả thế
hệ sinh sau, đẻ muộn, vẫn luôn luôn nghĩ đến thân phận cùng sự hy sinh
cao cả của họ. Chúng ta có bổn phận đóng góp một cách thiết thực hầu
xoa dịu phần nào nỗi đau khổ và nhọc nhằn của người Thương Phế Binh
VNCH bất hạnh.
Trần Việt Trình
10 tháng 8 năm 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét