Cách đây trên 2350
năm, thiên tài quân sự Tôn Vũ Tử (sinh năm 400 Trước Công Nguyên - Mất
năm 330 trước CN) đã để lại cho hậu thế quyển Tôn Tử Binh Pháp ( còn
gọi là Tôn Ngô Binh Pháp ), một tác phẩm bất hũ được xem là một quyển
binh thư toàn hảo nhằm mục đích giáo dục các cấp lãnh đạo biết việc ứng
dụng nghệ thuật quân sự vào các kế hoạch điều binh; hiện còn được các
viện Nghiên Cứu Chiến Lược nổi tiếng trên thế giới dùng, và các chiến
lược gia một phần dựa vào đó để soạn thảo kế hoạch tác chiến cho các
lực lượng vũ trang quốc gia.
Theo
chỉ đạo của chiến lược gia họ Tôn, nếu muốn quân đội chiến đấu hữu
hiệu, thâu gặt được nhiều thắng lợi, buộc các cấp lãnh đạo phải biết
ứng dụng kỷ thuật tình báo vào các công tác hành binh. Vì
thế, Tôn Vũ Tử đã dành trọn cả thiên thứ XIII của bộ Tôn Ngô Binh Pháp
để viết, phân tách, giảng dạy và hướng dẫn các nhà quân sự về tình báo
với một lời minh xác rõ rệt: «Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến bách thắng»;
có nghĩa là: «biết mình, biết người trăm trận trăm thắng; trái lại biết
mình mà không biết người thì chỉ có thảm bại và trăm trận đều thua».
Nói chung, không nắm vững tin tức chính xác và giá trị thì sẽ không bao
giờ đoạt kết quả.
Để
đạt được hiệu năng nói trên, họ Tôn đã nói cho lãnh đạo các cấp biết,
muốn chủ động trên các mặt trận, từ kinh tế, chính trị đến quân sự, thì
tiên quyết nhà lãnh đạo phải nắm vững các yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và
Nhân Hòa. Tựu trung, muốn có kết quả tốt phải
nắm vững các nguồn tin và muốn được vậy thì cần phải có được một hệ
thống cán bộ giỏi, can đảm và thông thạo kỷ thuật thâu lượm tin, một là
qua các đường lối «thẩm thấu», tức xâm nhập vào hàng ngũ địch
(infiltration) , hoặc là áp dụng phương pháp cài người (service de
noyeautage) mà cán bộ điệp báo (gián điệp+tình báo) văn vẻ gọi là «Hoa
Nở Giữa Lòng Địch». Theo ý họ Tôn, dù áp dụng
hình thức nào, đòi hỏi người thi hành nhiệm vụ phải có một lý tưởng
chiến đấu vững chắc, đặc biệt với những ai được sử dụng vào các điệp vụ
cài người; do phải đơn thương độc mã hoạt động giữa lòng địch, phải đối
diện với mọi tình huống khó khăn và nguy hiểm, người cán bộ ngoài đức
tính bình tĩnh và can đảm, họ buộc phải tiến hành công tác với một niềm
tin mãnh liệt giống như các tín đồ của một tôn giáo mới đáp ứng được
yêu cầu của vai trò điệp báo.
Xin mời quý độc giả xét vai trò gián điệp trong cuộc chiến Quốc-Cộng vừa qua.
Vai Trò Điệp Báo Trong Cuộc Chiến Tranh Quốc-Cộng:
Như
độc giả biết, mặc dầu bị Pháp đô hộ hơn 80 năm, toàn dân Việt Nam vẫn
bất chấp gian nguy, vẫn kiên trì và không ngừng chiến đấu chống lại bọn
đế quốc xâm lược. Hết phong trào Cần Vương rồi đến Văn Thân; hết các
chiến công oanh liệt của bộ đội ông Thủ Khoa Huân, quân của tướng
Nguyễn Trung Trực ở trong Nam, đến chiến khu kháng chiến của người hùng
Yên Thế là ông Đềà Thám ở ngoài Bắc, nhân dân ta đâu đã chịu ngồi yên
để cho thực dân Pháp an tâm hưởng lợi. Với khí thế toàn dân, toàn diện
chiến đấu, cộng với sự hỗ trợ của hệ thống tình báo nhân dân, quân ta
nhiều phen giáng trả cho thực dân và thế lực phong kiến nhiều đòn chí
mạng, lắm lúc cơ hồ như sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm có hy vọng như
ánh sáng cuối đường hầm.
Rủi
thay, đến thập niên 1930, khi đảng CSVN ra đời; chúng nhờ được phong
trào cộng sản quốc tế tích cực yểm trợ nên khá mạnh, nhưng bọn họ lại
có mưu đồ đánh phá phía quốc gia. Do đó lực lượng của ta bị kẹt giữa hai lằn đạn. Ta
không những bị thực dân truy lùng tận diệt, mà còn bị cộng sản tìm cách
đánh lén, chỉ điểm, cung cấp tin tức về hoạt động của ta cho Pháp. Cụ
thể là trước ngày khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Thái Học
đã nhiều phen bị khó khăn vì phát giác được chính bọn CSVN chỉ điểm cho
Tây biết trước các hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (*). Càng về
sau, bọn cán bộ CSVN càng ra mặt phản quốc làm chó săn cho Pháp để đánh
phá phía quốc gia; điển hình là Võ Nguyên Giáp, một cán bộ cộng sản cao
cấp đã từng xin làm con nuôi cho trùm mật thám Pháp Louis Marty. Về
sau, 1945-1946, đàn em của Giáp lại công khai tình nguyện bán tin và
chỉ điểm hoạt động quân sự của Mặt Trận Quốc Dân Đảng (gồm Việt
NamQDĐ+ĐạiViệt QDĐ) cho Cousseau, một tên đầu sỏ tình báo Pháp để bọn
chúng phối hợp lùng diệt ta.
Tương quan lực lượng tình báo của hai phía Quốc-Cộng:
Cả hai phía Quốc-Cộng đều đặt nặng công tác tình báo hòng thâu lượm được nhiều thắng lợi. Tuy nhiên, cán cân lực lượng nghiêng hẵn về phía cộng sản hơn Quốc Gia vì các lý do sau đây:
a-)
Phần quốc gia: Cán bộ không được huấn luyện đủ, riêng về phía các chính
đảng thì chỉ dựa vào lòng ái quốc và kỷ luật đảng, và nhờ được trang bị
lý tưởng chiến đấu nên sẵn sàng hy sinh tính mạng cho chính nghĩa quốc
gia. Tiếc thay, vì không được yểm trợ tài chánh, thiếu phương tiện, nên
nếu có đạt được phần nào kết quả chẳng qua là nhờ may mắn, hoặc kinh
nghiệm và tài năng cá nhân chứ không phải nhờ đường lối chỉ đạo chung
mà có.
Về
phía quân đội quốc gia khi được thành lập và trưởng thành thì nói
chung, về khả năng và kỹ thuật thâu lượm tin tức cũng như danh tài điệp
báo thì chúng ta đâu có thiếu người giỏi. Tiếc thay, phải hoạt động
theo một đường lối thư lại; cấp lãnh đạo lại không đủ khả năng vận dụng
lòng yêu nước và lý tưởng quốc gia mà chỉ dùng bã danh lợi làm động cơ
thúc đẩy. Vì thế, người thi hành nhiệm vụ tình
báo không phát huy hết khả năng cũng như tinh hoa của nghiệp vụ... Hơn
nữa, từ tài chánh cho đến phương tiện hoàn toàn trực thuộc nguồn viện
trợ: Ai chi tiền, người đó chỉ huy.
Trước
năm 1954, mọi việc đều dựa vào quân đội Pháp và chỉ có người Pháp mới
chủ động công tác tình báo; về sau thì do ta trực tiếp sưu tầm, nhưng
lại phải trông nhờ vào phương tiện của Mỹ. Tình hình chung, họ có mở
rộng hầu bao, và cung cấp đủ phương tiện thì ta nhờ, bằng không thì
phải tự xoay xở lấy; với phương thức hoạt động như thế thì đâu có kết
quả tốt. Ví dụ cụ thể, Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, khi người viết phải tạm
giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiền Phương Sư đoàn 5 Bộ binh tại Bình
Long-An Lộc trong một thời gian ngắn; trong sinh hoạt tham mưu hằng
ngày, chúng tôi cố mưu tìm Tin A2, tức là tin tức tối mật từ viên cố
Vấn Mỹ đặc trách tình báo để biết và theo dõi hoạt động của các đơn vị
CS thường quấy phá Sư Đoàn 5 như các Công trường 5,7,9. Rất tiếc, vì
một lý do đặc biệt nào đó liên quan đến việc đi đêm giữa Mỹ-VC tại hòa
đàm Paris nên viên cố vấn nầy thường úp mở tìm cách thoái thác không
cho biết, hoặc có, thì y nói là đơn vị CS còn cách xa Sư Đoàn trên mấy
trăm km. Bất ngờ vào những ngày cuối tháng 3-1972, khi các công trường
của địch đã bám sát ta, chỉ còn cách bản doanh độ 30km, nghĩa là vừa
tầm đại pháo 130 ly, lúc nầy Mỹ mới tiết lộ. May mà Sư Đoàn đã có chuẩn bị trước, bằng không sẽ vô phương cứu chữa và thất trận ngay lúc đó.
2-)
Phía CSVN: Trước hết phải xác nhận, cộng sản là một loại «Tôn Giáo Thế
Tục», cán bộ của chúng ắt là những «tín đồ»ngoan đạo; do đó bất cứ hành
động nào thấy lợi, cần hy sinh để phục vụ đảng và sự nghiệp của quốc tế
vô sản thì bọn chúng sẵn sàng dấn thân. Ngoài việc học tập các giáo
điều và được trang bị lý tưởng chiến đấu, CSVN còn được quốc tế cộng
sản hỗ trợ tài chánh và kỹ thuật tối đa, lại nữa chúng thu lượm được
nhiều kinh nghiệm điệp báo từ Hiến Binh Nhựt, OSS Mỹ, KGB Nga, đến
Phòng Nhì Pháp nên có nhiều hiểu biết hơn quốc gia; nhờ đó cộng sản đã
mưu đồ thực hiện nhiều điệp vụ hơn ta.
Ví dụ: khi Hiệp Định Genève ra đời để tạm chia đôi đất nước; phía CSVN đã có sẵn kế hoạch và đã gài người ở lại miền Nam. Chúng
ra lệnh chôn giấu vũ khí để chờ cơ hội tái hoạt động. Trong khi đó về
phía quốc gia theo các cấp lãnh đạo cao cấp tình báo từ Sở Nghiên Cứu
Chính Trị Phủ Tổng Thống, cho tới Nha Kỹ Thuật về sau tiết lộ: do không
có cơ sở quần chúng tại địa phương, đặc biệt ở miền Bắc lại không có
chính quyền quốc gia; hơn nữa thiếu tiên liệu và phương tiện, vì thế
chỉ gài được một số hoạt động nhỏ và sau một thời gian ngắn, phần lớn
đã bị «bể» phải rút vào bóng tối. Về phía người Mỹ, tuy họ có chủ động
bằng cách thuê mướn một số người sắc tộc thiểu số địa phương hoạt động
quấy phá tại hậu phương địch, nhưng vì không có chính nghĩa và thiếu
kiên nhẫn nên sớm tàn lụi.
Nhận
xét chung: Do bản chất cũng như vì nặng đầu óc tiểu tư sản, người quốc
gia cứ tự cho mình là «chính nhân quân tử» nên quan niệm rằng, việc tìm
tòi, bươi móc dí mũi xía vào chuyện của người khác để tìm kiếm tin tức
không phải là một hành động chân chính, mà đó là việc làm của kẻ tiểu
nhân; trong khi đó phía CS phần lớn là bọn lưu manh, chúng bất chấp thủ
đoạn để «moi tin» vì thế khả năng săn lùng theo dõi và thu lượm tin của
ta không bằng phía cộng sản.
Những Điệp Vụ Cài Người Điển Hình Của CSVN Vào Chiến Tuyến:
Có
nhiều sách báo, hoặc xuất hiện trên các mạng lưới internet tỉ như «Thép
Đen», thỉnh thoảng đã phổ biến một số tài liều về hoạt động tình báo mà
CSVN đã gài để phá hoại hàng ngũ quốc gia. Trong khuôn khổ bài viết hạn
hẹp, chúng tôi chỉ xin trình bày đến quý bạn đọc vài câu chuyện điển
hình xảy ra từ trước dưới đây:
1-)
Việt Minh cộng sản gài nữ sĩ Thụy-An giết chết ông Đỗ Đình Đạo: Năm
1953, Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí đề cử ông Đỗ Đình Đạo làm Tổng
Giám đốc Đoàn Quân Thứ Lưu Động để bình định các tỉnh phía Bắc. Được
biết, ông Đạo là một cấp lãnh đạo của một chính đảng quốc gia; với tài
sản to lớn và hùng khí sẵn có, ông đã yểm trợ tối đa cho Đệ Tam Khu
Chiến của VNQDĐ trong kế hoạch tiêu diệt cộng sản địa phương. Vốn mang
hai dòng máu, nhờ đó ông có được một ngoại hình bảnh trai; ông lại giàu
nghệ sĩ tính, sử dụng chiếc clarinette một cách tuyệt vời điệu nghệ, vì
thế ông đã lôi cuốn khá nhiều nữ giới... Với tài năng, uy tín và nhiều
ưu điểm khác của ông, dưới mắt bọn cộng sản đánh giá cho là nguy hiểm;
theo chúng ước tính, nếu người hùng Đỗ Đình Đạo tận dụng hết khả năng
điều khiển Đoàn Quân Thứ Lưu Động bình định địa phương thì chắc sẽ
chóng thành công, trong tình huống đó thì bọn du kích CS Việt Minh địa
phương không còn đất chôn thân.
Võ
Nguyên Giáp được báo cáo, y thấy nguy hiểm nên ra lệnh phải thủ tiêu
ông Đạo. Phản gián CS đã vận động một số nữ giới trong đó có nữ sĩ Thụy
An tham gia tổ chức ám sát ông Đạo. Nữ sĩ Thụy
An, một nữ lưu tuy không đẹp và xuất sắc bằng phu nhân của ông Đạo,
nhưng y thị lại được huấn luyện tình báo nên sở trường về nghệ thuật nữ
sắc. Mặt khác, theo đánh giá thì nữ sĩ Thụy An
dễ tiếp cận với «đối tượng» hơn các ứng viên khác vì dù sao cũng được
tiếng là một nữ văn sĩ; lại nữa, bà ta vốn đã từng «già nhân ngãi non
với vợ chồng» với ông Đạo từ trước, nên y thị dễ bám sát con mồi. Quanh
ông Đạo chẳng ai chú ý đến chuyện liên hệ nam nữ giữa hai người; họ chỉ
để ý đến việc đôi nhân tình quấn quýt nhau, và chỉ phát giác được vụ
việc khi thấy thi thể của ông Tổng Giám Đốc bị bầm tím và Thụy-An đã
cao bay xa chạy. Về sau khám phá và biết được:
Thụy An đã lợi dụng việc phòng the, thừa cơ hội «đối tượng» bị thấm mệt
sau cuộc truy hoan liền tự tay chích một mũi độc dược cyanure để giết
chết người vừa chăn gối.
Kết
quả: Chỉ vài năm sau khi nữ sĩ Thụy An ám sát ông Đổ Đình Đạo chết, do
y thị vô ý nói: «Theo lệnh của anh Văn, (tức Võ Nguyên Giáp), tôi đã
chích thuốc giết chết tên Đạo» Cộng sản cho đó là tiết lộ bí mật công
tác, hơn nữa bọn chúng muốn bịt đầu mối nên hạ lệnh «trả công» cho Thụy
An bằng cách vô cớ ghép bà vào vụ án Nhân Văn Giai Phẩm và bỏ tù bà 15
năm. Năm 1982, một vài chiến hữu VNCH bị tù đày ở trại giam CS Hà Tây,
trong dịp đi lao động đã gặp lại bà với thân hình tiền tụy, bị chột mắt
trái, đang ngồi trên một sạp lá gần trại Hà Tây, bán thuốc lào với vài
ấm trà nụ vối để độ nhật. Bà cho biết, khi bọn
công an tới còng tay, bà kịp lấy ngòi viết đâm vào mắt trái và nói:
«Tao chỉ muốn nhìn bọn cộng sản chúng bây bằng một con mắt»
2-)
Vụ gián điệp Phạm Xuân Ẩn: Trong dịp ông Phạm Xuân Ẩn, cựu tình báo
viên cộng sản qua đời vào sáng 20-9-06 tại Quân Y Viện 175 Sài Gòn ở
tuổi 79, báo chí trong nước và ngoại quốc đã viết rất nhiều về nhân vật
nầy.
Nhật báo
Nhân dân của CSVN xuất bản vào ngày 21-9-06 đã «đánh bóng» một cách quá
lố rằng: «Sau hai mươi năm chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn đã làm được những
việc ít có nhà tình báo cổ kim đông tây nào làm nổi». Riêng
các đài ngoại quốc, đặc biệt đài Á Châu Tự Do phát thanh vào ngày
26-9-06 đã có bài viết về «cái chết của một siêu điệp viên» (Death of a
super spy) của Dan Southerland, Phó Tổng Giám Đốc đài nầy nói: «đối với
cộng sản Bắc Việt, siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước và
một người anh hùng. Đối với nhiều người miền
Nam, ông ta là một kẻ phản bội.» D an Southerland còn trích dẫn lời ký
giả của tờ báo The Independent ở London là Bruce Palling đề cao Ẩn, y
nói : «Ẩn được coi là một trong điệp viên lớn nhất của thế kỷ 20»(An
should rightly be viewed as one of the greatest spies of the 20th
century). Theo người viết cũng như một số chiến
hữu từng biết và có liên hệ với ông Ẩn đều nhận xét: chỉ có bọn CSVN
lẫn cả những kẻ từng chủ trương «bôi đen» hoặc «bi thảm hoá» tình hình
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó cho xấu đi để vừa ý bọn phản chiến ngụy hòa
Mỹ, chúng có cớ tháo chạy bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa; chỉ bọn đó mới lớn
tiếng đề cao Phạm Xuân Ẩn. Thực tế ông Ẩn chẳng
có gì đáng gọi «super hay siêu» mà chỉ là một gián điệp nhị trùng và là
một nhà báo từng đại diện cho các hãng tin ngoại quốc nhu Reuter, đặc
biệt là phóng viên chính thức của Tạp Chí Time tới 10 năm; nhưng bọn
phản gián đã huyền thoại hóa, hư cấu rồi lợi dụng tên tuổi của Ẩn để
phóng đại chiến công của CSVN. Sự đời kẻ thắng thì phét lác mấy mà chả được.
Vào
đầu năm 1954, nhờ được sự giới thiệu của Đại Úy Đinh v T, một bậc đàn
anh cùng quê làm chánh văn phòng của Trung tướng Nguyễn V Hinh, Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia VN lúc đó tiếng Pháp gọi tắt là EMG,
tức État Major Général, tọa lạc tại đại lộ Trần Hưng Đạo (Boulevard
Galilénie), chúng tôi mới biết được Thượng Sĩ Phạm Xuân Ẩn, một người
thông thạo tiếng Pháp lẫn tiếng Anh đang tùng sự dưới quyền Thiếu Tá Vũ
Văn Giai, Trưởng Phòng 5/BTTM. Về sau ông là thông dịch viên tiếng Anh
chính thức cho cơ quan TRIM, một bộ phận hổn hợp Mỹ-Pháp có nhiệm vụ
soạn thảo tài liệu huấn luyện cho quân đội quốc gia VN. Ông Phạm Xuân
Ẩn giải ngũ với cấp bực Chuẩn Úy. Theo lượng giá của Phòng Báo Chí Sở
Nghiên Cứu Chính Trị thì có lẽ Ẩn đã cọng tác với CIA và đã trở thành
một gián điệp nhị trùng kể từ khi tùng sự tại đó.
Về
sau nhờ có liên hệ công tác, chúng tôi lại được tái ngộ với ông Ẩn khi
ông nầy phục vụ tại Sở Nghiên Cứu với ông LVT và được biết, Phạm Xuân
Ẩn còn có tên khác, sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, tỉnh Biên Hòa.
Được biết, có một thời gian ngắn đương sự đã theo kháng chiến.
Với
một số tài liệu trên, chúng tôi cảm biết; Bác sĩ Trần KimTuyến, Giám
đốc Sở Nghiên Cứu đã nắm rõ lý lịch của đương sự, và vì thế mới tài trợ
cho Phạm Xuân Ẩn đi tu nghiệp báo chí tại Nam California, Hoa Kỳ. Chắc
quý độc giả còn nhớ, thời bấy giờ đi du học hay du hành quan sát tại
Hoa Kỳ là một việc rất khó khăn; ngay sĩ quan các cấp, không đủ tiêu
chuẩn an ninh, có nghĩa từ tứ thân phụ mẫu đến bà con quyến thuộc có
liên hệ với CSVN đều bị loại. Sở Nghiên Cứu Chính Trị đã bảo trợ cho
ông Phạm Xuân Ẩn đi tu nghiệp thì việc ông ta trở lại phục tại cơ quan
chẳng có gì thắc mắc. Điều đặc biệt, khi Bác sĩ Giám đốc Sở bị thất
sủng và do áp lực Hoa kỳ, Sở bị giải tán thì ông Ẩn được bố trí làm cho
các cơ quan thông tín ngoại quốc cũng là điều hợp lý.
Câu hỏi đặt ra:
1-
Nguyên nhân nào mà ông Phạm Xuân Ẩn cố tìm cách cứu BS Trần Kim Tuyến
và một số người khác ra khỏi tay CSVN vào phút chót? (Thoát khỏi Sài
Gòn ngày 29-4-75). Một số người biết điều đó vội khen ông Ẩn thuộc hạng «trung nghĩa lưỡng toàn». Thật
ra, trong điệp vụ chẳng có gì là tình nghĩa, mà đó chỉ là một hành động
«bịt đầu mối». Vì nếu để BS Tuyến bị rơi vào tay cộng sản, bị tra khảo
chịu không nổi phải tiết lộ bí mật thì số phận của Ẩn mà trước đây từng
cộng tác với BS Tuyến sẽ ra sao; do đó ông Ẩn phải bằng mọi giá đưa BS
Tuyến thoát khỏi tay CS.
2-
Tại sao Ẩn đã đưa gia đình vợ con đi Mỹ, cứu được BS Tuyến vào phút
chót mà ông Ẩn chấp nhận ở lại đối diện với CSVN? Thật ra câu hỏi cũng
như đáp số cho đến khi ông qua đời chưa một ai rõ, kể cả những người
thân tín nhứt, ông chỉ nói: « Tôi là một đảng viên, mọi việc do dảng
quyết định». Phải chăng đó là một lời trung thực của một «tín đồ»ngu
dại quá tin vào đảng.
Biết rằng, liền sau khi CSVN chiếm Sài Gòn ông Phạm Xuân Ẩn đã phải:
1-
Lập tức nhờ bạn bè sắp xếp để đưa gia đình vợ con trở lại VN, lộ trình
từ New York, Mỹ qua Paris, Pháp xuống phi trường Nội Bài và cả gia đình
ông Ẩn phải lưu lại tại Hà Nội trong 3 tháng để khai báo và làm kiểm
điểm.
2- Bản thân ông Ẩn phải ra Bắc một thời gian để bị tẩy nảo.
3-
Cá nhân ông Ẩn bị «quản chế» tại gia; không được xuất ngoại, bị cấm
tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc. Hình phạt
nầy kéo dài cho đến năm 1986 khi Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh ra lệnh mở
cửa và «cởi trói», dịp nầy Phạm Xuân Ẩn mới được tiếp xúc đầu tiên với
ký giả Dan Southerland. Và sau đó vì nhu cầu giao thiệp với truyền thông nước ngoài, ông Ẩn mới được phép nới rộng liên lạc hòng có lợi cho đảng. Tuy nhiên, ông vẫn dè dặt, không giống như Bùi Tín đã nói trong khi trả lời phỏng vấn một số báo.
Qua
phần trình bày sơ lượt trên, chúng tôi ắt quý độc giả đã nghĩ thế nào
về mặt trận tình báo giữa ta và CSVN trong cuộc chiến vừa qua, và chắc
chắn đã tìm hiểu được một phần nào nguyên nhân thất bại của chúng ta
trước kẻ thù cộng sản để rồi rút được bài học kinh nghiệm cho thế hệ
tương lai. Quan trọng nhứt là thấy được cái gương nhãn tiền mà bọn Việt
Cộng đã đối xử tàn nhẫn với những ai đã vì «lý tưởng cộng sản» mà hy
sinh cho chúng. Xin lưu ý, theo nguyên tắc tình
báo, đã là nhị trùng thì không thể hoàn toàn tin tưởng được, vì đầu óc
bọn lãnh đạo luôn đặt nghi vấn: «không phản bội, không bán đứng đồng
chí, không có chuyện trao đổi thì làm sao thâu lượm tin tức tốt?» vì
thế, dù có lập công bao nhiêu thì cũng chỉ tin được một phần.
Cứ
xem gương, từ nữ sĩ Thụy An bị đày đọa, đến Phạm Xuân Ẩn tuy được đề
cao, được tuyên dương «anh hùng lực lượng vũ trang», nhưng phải sống
trong nổi phập phồng lo sợ, đặc biệt là phải đối diện với một cuộc sống
nghèo nàn thiếu thốn đến độ phải nuôi chó bán chim để độ nhật. Thậm tệ
nhứt là bọn CSVN đối xử rất dã man và vô nhân đạo với Vũ Ngọc Nhạ; khi
bọn CS biết Nhạ đã lộ chân tướng, bị phản giánVNCH lợi dụng thì bọn họ
trở mặt đối xử rất tồi tệ với Nhạ. Tuy, được phong quân hàm cấp tướng,
nhưng không được trợ cấp, bị túng thiếu đến độ cháu ruột của Nhạ là anh
Vũ Ngọc Thưởng sống ở Pháp từng tâm sự với chúng tôi: «Chú tôi túng đến
độ nuôi hai đứa con trai không nổi phải nhờ bạn bè gửi chúng nó vào
trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, nhưng chẳng may tới đây thì hai đứa
nhỏ bị bỏ đói, bà thím cảm thấy lo sợ nên lại xin cho chúng trở lại
nhà. Rủi thay vận động chưa xong thì cả hai
thằng con trai của Vũ Ngọc Nhạ bị «trúng gió» chết ngay tại trường.»
(Phải chăng bọn CS trả thù vì cho Nhạ phản bội nên giết luôn mấy đứa
nhỏ).
Trong Tôn
Tử Binh Pháp, Tôn Vũ Tử từng viết: «làm chính trị mà không biết tình
báo là đui; hành binh mà thiếu tình báo là què». Câu nói của bậc thầy
nầy khiến chúng ta cần phải nghiên cứu và suy nghĩ kỹ lại cho đúng hoàn
cảnh.
Hiện
trạng sinh hoạt chính trị của Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại rất nhiễu
nhương và phức tạp, không biết đâu là thực đâu là giả; nói chung không
khác gì một đám người mù sờ voi: thậm chí khi hành động không biết mình
đã vô tình đi làm tay sai cho bọn CSVN nên đã làm hỏng sự nghiệp chống
cộng sản để cứu nước.
Kính
mong các đảng phải chính trị, tổ chức hội đoàn đấu tranh hãy mạnh dạn
thanh lọc hàng ngũ, đề cao cảnh giác để phòng ngừa sự xâm nhập của bọn
gián điệp CS xâm nhập phá hoại hàng ngũ chúng ta.
Phùng Ngọc Sa
08/10/2009
* Sách Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét