Trung Quốc có đáng sợ không? Trước hết là đối với người Việt Nam chúng ta.
Vấn
đề đầu tiên được đặt ra là “ý chí” có dám tranh đấu khi đất nước bị xâm
lăng và uy hiếp hay không? Việt Nam không phải chỉ thời nay mới bị
Trung Quốc uy hiếp và xâm lăng mà trong suốt quá trình từ khi lập quốc
trải qua mấy ngàn năm đến nay, thời nào người Trung Quốc cũng muốn xâm
lăng và uy hiếp Việt Nam, nhưng ông cha chúng ta không bao giờ sợ người
Trung Quốc. Cả nam, nữ, già, trẻ: Hai Bà Trưng,
Bà Triệu, bà Bùi Thị Xuân... các bô lão thời Trần chẳng có ai sợ người
Trung Quốc, mặc dù họ là một nước lớn, đông dân nhất thế giới. Chính
cái “ý chí” dám tranh đấu vì quyền lợi dân tộc, vì sự sống còn của Tổ
Quốc với cái tâm lý không sợ nên nhân dân Việt Nam đã đánh bại Trung
Quốc ít nhất là 15 lần.
Tôi lại nêu lên một
thí dụ điển hình nữa về “ý chí” quyết đấu tranh khi đất nước bị xâm
lăng. Trong lịch sử nhân loại có đế quốc nào hùng mạnh hơn Thành Cát Tư
Hãn ở thế kỷ thứ XIII. Thế mà ông cha ta đâu có sợ và đã 3 lần đánh bại
quân Mông Cổ. Sứ Nguyên đến nước ta nếu tỏ thái độ kiêu ngạo hống hách
là lập tức bị quân quan Ðại Việt trói lại tống ngục. Lịch sử thế giới
thời đó có nước nào cả gan từ chối tiếp sứ Nguyên, chứ chưa nói đến
giám trói sứ.
Ông cha ta như thế đấy. Chỉ có
những người lãnh đạo ÐCSVN ngày nay là nhu nhược hèn yếu và mang nặng
tâm lý khiếp sợ Bắc Triều. Chính thái độ khiếp nhược của ban lãnh đạo
ÐCSVN đã khuyến khích Bắc Kinh ngày càng lấn lướt. Bắc Kinh gây sức ép,
Hà Nội lùi từng bước, nhưng Việt Nam lùi chừng nào Trung Quốc tiến
chừng đó.
Nhìn lại một chuỗi diễn biến từ các
hiệp định biên giới do ban lãnh đạo ÐCSVN ký với Bắc Kinh năm 1999 –
2000 và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam đã
bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên đất liền mất mấy chục nghìn Km2, và
những gì họ chiếm được không bao giờ nhả ra. Bắc Kinh còn đang lấn
chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta, vùng biển bị Trung Quốc tiếp tục bành
chướng xuống biển Nam Hải mà không gặp sự kháng cự đáng kể nào của Hà
Nội. Ban lãnh đạo ÐCSVN còn dấu nhẹm không cho nhân dân biết các hiệp
định ký với Trung Quốc khi sự việc Trường Sa, Hoàng Sa bùng lên, thậm
chí họ còn không cho dân chúng phản đối Trung Quốc trong rất nhiều vụ
biểu tình chống Trung Quốc đã bị đàn áp.
Hải
Quân Trung Quốc năm 2006 vô cớ nổ súng giết chết 9 ngư phủ Việt Nam. Từ
đó đến nay, năm nào hải quân Trung Quốc cũng bắn và bắt ngư phủ Việt
Nam đánh cá trên vùng biển của mình. Hà Nội nín thinh, gần đây 2 người
Trung Quốc đánh chết một công dân Việt Nam ngay tại Thủ Ðô, Hà Nội.
Công an tòa án Việt Nam không dám động đến công dân thiên triều, đành
phải giao tên tội phạm lại cho Trung Quốc.
Nhu
nhược đến thế là cùng! Sự khiếp sợ Bắc Triều như một bệnh dịch lan
truyền từ cấp lãnh đạo cao nhất của đất nước đến các tướng lãnh binh sĩ
không còn ai dám tranh đấu cho quyền lợi của đất nước. Ðài Loan chỉ có
20 triệu dân, từ nửa thế kỷ nay, thường xuyên bị Trung Quốc đe dọa thôn
tính. Nhiều khi tưởng như họ ăn tươi nuốt sống hòn đảo bé nhỏ này, thế
mà lãnh đạo và dân chúng Ðài Loan đâu có khiếp sợ, đối với giới lãnh
đạo Bắc Kinh “mềm nắn, rắn buông”. Nên vấn đề sống còn của đất nước
được đặt ra vẫn là ý chí dám tranh đấu cho quyền lợi dân tộc thì Trung
Quốc dù có bao nhiêu triệu quân với những võ khí tối tân họ cũng chẳng
làm gì được.
Nước Tầu khổng lồ chỉ có thể ám
ảnh giới lãnh đạo ÐCSVN. Nhìn lại quá khứ và cả lịch sử cận đại trên
thực tế lịch sử đã chứng minh người khổng lồ Trung Hoa thường bị các bộ
tộc thiểu số nhỏ cai trị nhiều lần, mặc dù người Tầu có (Binh Thư tuyệt
tác của Tôn Tử). Nhưng các tướng Hán đánh một trăm trận thua chín mươi
chín trận. Xin dẫn ra đây một số trường hợp để bạn đọc suy ngẫm:
Lịch
sử nước Tầu có chép: Ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên (Mông Cổ) là bộ
phận tổ thành quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa là các đế quốc
mạnh thống nhất được Trung Hoa và cường thịnh một thời lại do các dân
tộc thiểu số tạo lập nên ở vùng phía Bắc Trung Hoa.
Ba
triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều đóng đô ở Bắc Kinh. Nước Liêu dòng
Khiết Ðan lập nên gọi Bắc Kinh là Nam Kinh, là một trong bốn kinh đô
của nước Liêu, nước Kim thuộc dòng Nữ Chân của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A
Cốt Đả kiến lập gọi Bắc Kinh là Trung Ðô. Triều Nguyên do người Mông Cổ
xây dựng định đô tại Bắc Kinh gọi là Ðại Ðô.
Các
ông vua của ba triều đại Liêu, Kim, Nguyên đều sinh ra và lớn lên ở
vùng hoang mạc mênh mông, thích cỡi ngựa, săn bắn và chơi bời hưởng lạc
vô độ. Họ đã bắt các hoàng đế Trung Hoa phải quỳ gối khuất phục. Sự
khiếp nhược và bất lực của nhiều triều đại Trung Quốc trước những người
láng giềng nhỏ bé nhưng được trang bị bằng tinh thần thượng võ. Với ý
chí quyết thắng ngay cả những đối thủ tý hon như Hung Nô, Ðột Quyết,
Tây Hạ và Mãn Thanh cũng đã cai trị cả nước Trung Hoa vĩ đại. Ðối với
Việt Nam, ông cha ta chưa bao giờ chiến đấu trong một trận ngang sức.
Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Nguyễn
Huệ. Tiền nhân ta đã thắng kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Trong Bình
Ngô Ðại Cáo, Nguyễn Trãi đã từng viết: “Ðánh một trận sạch không kinh
ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.”
Ta
thấy khi quân Mông Cổ bao vây Long An. Triều đình Nam Tống các quan văn
võ bỏ chạy hết, chỉ còn lại sáu người. Thái Hoàng Hậu triệu tập đại
thần làm việc. Các quan đã chạy hết. Trần Nghị Trùng một mực xin giảng
hòa (xin hàng). Lương Mông Viễn thấy thế không lợi. Ông tướng này đã
lén chạy khỏi Lâm An đến đầu hàng quân Mông Cổ. Thái Hậu cử Trần Nghi
Trung đến trại Bá Nhạn cầu hòa và nộp tiền, nhưng Bá Nhạn không nghe.
Chỉ quy định thời gian cuối cùng để xin hàng. Thế là tất cả triều đình
bá quan văn võ đều nhất trí xin hàng. Tục ngữ Việt có câu: “Con nhà
tông chẳng giống lông cũng giống cánh” hay “Cha nào, con nấy”, hoặc
“Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” cái giống người Hán thâm độc và chịu nhục thì
không giống người nào bằng. Nhưng trận mạc thì lại rất dở.
Trong
thực tế, chiến thắng bao giờ cũng do đào luyện quân sĩ, quân sĩ thì
cũng tùy ở giống. Người Tầu từ dân đến tướng lãnh, binh lính mấy ngàn
năm nay chẳng thay đổi gì, chậm chạp, nặng nề, không có sáng kiến trong
trận mạc, không có óc tự tin, dễ hoảng hốt trước những chuyện bất ngờ.
Xem các trận đánh với các bộ tộc thiểu số trận nào họ cũng thua đậm.
Ðến đời nhà Tống bọn tướng sĩ Hán nhát như chuột. Nghe tiếng quân Mông
Cổ sợ hết hồn hết vía, run cầm cập còn đánh chác gì! Bọn tướng Tầu,
thời Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông lẫn quân lính cũng vậy, cứ nghe
thấy tiếng quân Nhật là bỏ chạy thục mạng. Cho đến khi Nhật hàng đồng
minh rồi vẫn còn hoảng sợ.
(Ðồng minh giao cho quân Tầu nhiệm vụ tước khí giới quân Nhật. Không dám đến gần, phải có quân Mỹ đi bên cạnh mới chịu đi.)
Bất
cứ ai nghiên cứu lịch sử Trung Hoa từ thời Cổ Đại, còn được gọi là thời
kỳ Tiền Sử, cách đây khoảng 5000 năm, tới thời kỳ Trung Cổ rồi lịch sử
Cận Đại. Theo quan điểm chung hiện nay cho rằng lịch sử Cận Đại bắt đầu
từ Cách Mạng Tư Sản Anh, năm 1640 và kết thúc vào đầu thế kỷ 20. Đến
thời kỳ Hiện Đại được nhiều sử gia thống nhất mà tính từ đầu thế kỷ 20
cho đến nay. Trong khoảng thời gian trên một trăm năm lại có thể chia
thời kỳ hiện đại thành hai giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 đến khi kết thúc
chiến tranh thế giới lần thứ II. Suốt trên một trăm năm những trận đánh
trên đất Tầu, xét trên tổng thể trận nào người Tầu cũng thua đậm, và
buộc phải ký những hiệp ước hết sức nhục nhã. Tác giả tạm kể những trận
đánh chính yếu dưới đây:
Sự khởi đầu “Lịch sử
Trung Quốc hiện đại” là chiến tranh thuốc phiện năm (1839) Anh đã đánh
bại Trung Quốc, trong giai đoạn này Trung Quốc có trên 400 triệu dân.
Anh chỉ có 10 triệu... Và cái yêu sách tiếp theo đối với triều đình nhà
Thanh mỗi lúc càng nặng nề. Xin tóm lược những cuộc hành quân của quân
Anh như sau:
Năm 1840, Hạm đội Anh do Ðô đốc
George Elliot chỉ huy đến Quảng Châu (tháng 6) hải cảng và Ðảo Châu Sơn
bị quân Anh chiếm (tháng 7)
Năm 1841, Ðặc
mệnh toàn quyền Anh Henry Pottinger (1789-1856) chỉ huy hải quân Anh
tiến dọc vùng duyên hải Trung Quốc, chiếm hầu hết những thành phố quan
trọng như Thượng Hải bị chiếm tháng 6-1842, và sau đó là Thẩm Dương
v.v.... Triều đình Trung Hoa phải cầu hòa (xin hàng) và chịu thất bại
quân sự lớn nhất thời đó.
Ngày 29/8/1942 Hiệp
Ước Nam Kinh được hai bên ký kết trên Tầu Cornvallis của hải quân Anh.
Hồng Kông phải nhượng cho Anh vốn đã bị chiếm từ tháng (1/1841) mở cửa
thương mại ở 5 cảng lớn Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và
Thượng Hải.
Ngày 26/6/1858, ký hiệp ước Thiên
Tân giữa Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và Nga, buộc Trung Quốc phải mở thêm
11 cảng nữa và các nước thành lập Tòa Ðại Sứ ở Bắc Kinh. Các nước có
quyền thương mại và truyền đạo Thiên Chúa giáo ở nội địa. Thuế xuất và
quy định mậu dịch thiết lập hải quan thanh tra nước ngoài (Horatio N.
Laij) hợp pháp hóa việc nhập khẩu thuốc phiện.
Hiệp
Ước Ái Huy, do Di Sơn và Nicholas Muraview năm 1891 ký kết buộc Trung
Quốc, phải nhượng cho Nga Hoàng vùng đất tả ngạn sông Amur rộng mênh
mông.
Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh
25/10/1891) với Pháp tăng tiền bồi thường chiến phí. Pháp dành quyền sở
hữu đất đai các đoàn truyền giáo Thiên Chúa giáo, được tự do truyền
đạo, còn sứ thần Nga, thì buộc nhà Thanh phải nhượng khu vực từ miền
Ðông USSURI (Cô-Tê-Lý-Giang) cho tới bờ biển. Nghĩa là 4 nước đè người
khổng lồ ra làm thịt tơi bời lại tiếp đến Nhật:
Ngày
23/7/1894 - 17/4/1895 chiến tranh Trung Nhật diễn ra sau 10 ngày về vấn
đề Triều Tiên. Vì cuộc khởi nghĩa của Hội Ðông Học ở Nam Triều Tiên tạo
cớ cho Nhật nhảy vào bắt Nữ Hoàng Triều Tiên và chỉ định một nhiếp
chính trung thành với Nhật. Ngày 21/7 Tầu của Kowshing của Anh chở quân
Tầu đến Triều Tiên can thiệp, bị quân Nhật đánh chìm nghỉm, ngày 25/7
nhiếp chính Triều Tiên tuyên chiến với Trung Quốc. Trung Quốc và Nhật
cũng tuyên chiến với nhau. Nhật dành toàn thắng trên bộ và cả trên biển
tại Bingyang ngày 16/9 ngoài khơi sông Áp Lục gần cảng Lư Thuận, ngày
21/11 và tại Uy Hải Vệ (21/2/1895).
Ngày 17
tháng 4 năm 1895 Trung Quốc phải chấp nhận tất cả điều khoản của hiệp
ước Mã Quan. Triều đình nước Tầu buộc phải công nhận nền độc lập của
Triều Tiên và nhượng đảo Ðài Loan, Bành Hồ và cả bán đảo Liêu Ðông ở
Mãn Châu cho Nhật. Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh 200 triệu
lạng Bạc, và mở thêm 4 cảng cho ngoại thương của Nhật. 1896, Nhật được
quyền lãnh tài phán ở Trung Quốc (bạn đọc lưu ý: Sở dĩ tôi đề cập đến
vấn đề này để nhắc chúng ta rằng những hiệp định và biên giới giữa VC
với Bắc Kinh không có giá trị pháp lý).
21
tháng 7 . Hiệp ước thương mại với Nhật, được coi là một phần của giải
pháp hòa bình, trao cho Nhật qui chế tối huệ quốc và bảo đảm các nước
ký hiệp định có quyền vận hành các cơ sở công nghiệp ở các cảng được
qui định trong hiệp ước.
14/11/1897. Ðức
chiếm vịnh Giao Châu với Thanh Ðảo sau vụ sát hại hai nhà truyền giáo ở
Sơn Ðông. Từ lâu người Ðức coi việc này là chuỗi logic của sự can thiệp
ba bên (1895). Việc này thúc đẩy “hàng loạt nhượng bộ” trong năm sau,
trong đó hầu hết các nước phương Tây đều tham gia.
Tháng
2/1898. Anh đạt được hiệp định mở cửa đường thủy nội địa đối với Tầu
nước ngoài, không bán đồng bằng sông Dương Tử cho nước khác, và sử dụng
tổng thanh tra người Anh đối với hải quan khi thương mại Anh còn có vai
trò chủ đạo trong các lãnh vực này.
6 tháng
3. Ðức đạt được hiệp ước thuê vịnh Giao Châu trong 99 năm, với các
quyền xây dựng đường sắt và khai thác các mỏ ở Sơn Ðông (đường sắt
Thanh Ðảo - Tế Nam khánh thành năm 1904). Khoản vay thứ hai từ Anh và
Ðức gồm 16 triệu bảng trong 40 năm với lãi suất 4.5%.
27
tháng 3, 7 tháng 5. Nga buộc Trung Quốc cho thuê phía Nam bán đảo Liêu
Ðông trong 25 năm, kể cả Ðại Liên và Lữ Thuận, được quyền xây dựng
đường sắt từ Cáp Nhĩ Tân ở phía Bắc đến các cảng mới thuê.
10
tháng 4. Pháp ký hợp đồng thuê vùng Quảng Châu Loan và miền phụ cận
trong vòng 99 năm, được quyền mở rộng đường sắt đến Vân Nam (hoàn thành
năm 1910) và cam kết không bán cho nước khác các phần dọc biên giới
Việt Nam.
26 tháng 4. Nhật nhận được cam kết của Trung Quốc không bán phần đất ở Phúc Kiến.
9 tháng 6. Anh ký hợp đồng thuê Cửu Long đối diện Hồng Kông trong 99 năm, và (1/7) thuê Uy Hải Vệ khi Nga thuê Lữ Thuận.
Hiệp ước Ái Huy, do Di Sơn (c.1878) và Nicholas Muraviev (k.1809 – 1891) ký kết, nhượng tả ngạn sông Amur cho Nga.
1859.
Nhà Thanh từ chối yêu cầu của Anh về việc cho phép các nhà ngoại giao
nước ngoài vào Bắc Kinh. Anh tấn công chiến lũy Ðại Cổ (25/6) nhưng bị
đẩy lùi.
12/10/1860. Bắc Kinh bị 17.000 quân
Anh và Pháp chiếm đóng. Cung điện Mùa Hè (Viên Minh viên) bị đốt cháy
thành bình địa (18/10) để trừng phạt triều đình bắt giữ phái đoàn Anh.
Hoàng đế rời khỏi kinh đô chạy lên phía Bắc, em của hoàng đế “đàm phán”
Hiệp ước Bắc Kinh (24/10 với Anh, 25/10 với Pháp), tăng bồi thường
chiến phí, Pháp giành quyền sở hữu đất đai cho các đoàn truyền đạo
Thiên Chúa. Sứ thần Nga Muraviev buộc nhà Thanh nhượng khu vực từ miền
Ðông Ussuri (Ô Tê Lý Giang) cho tới bờ biển (14/11). Vào thời điểm này,
Anh trở thành đồng minh mạnh nhất của triều đình nhà Thanh chống lại
các cuộc khởi nghĩa địa phương.
1855-1873.
Sau nhiều năm xung đột với người Hán địa phương và bị triều đình đánh
thuế quá nặng, người Hồi Giáo (Panthays) ở Vân Nam nổi dậy, thành lập
nhà nước độc lập, “Vương quốc Nam Thái Bình” ở Dali, thuộc kinh đô cố
Nam Chiếu. Ngoài ra còn có cuộc nổi dậy của người Hồi Giáo ở Tây Bắc
(Giang Tây và Cam Túc, 1862-), sau đó bị Tả Tôn Ðường dập tắt.
1855-1881. Bộ tộc H’mong ở Quí Châu khởi nghĩa.
8/10/1856.
Sau nhiều năm Anh, Pháp, và Mỹ nỗ lực nhằm giành các quyền và ưu tiên
mới thông qua sự chỉnh lý hiệp ước. Sự kiện Tầu Arrow ở Quảng Châu tạo
cớ cho Anh ép buộc người Trung Hoa bằng quân sự. Tuyên bố tầu Arrow đã
đăng ký ở Hồng Kông và bị quan chức nhà Thanh khám xét bất hợp pháp,
Anh chuyển quân và chiếm Quảng Châu (12/1857). Sau đó các tầu Anh bắt
đầu hướng ra phía Bắc để buộc triều đình đầu hàng.
Ðến
thời cận đại (1789-1914) và đương đại 1945 với Anh, Pháp, Nga và Nhật
ta sẽ thấy sự khiếp nhược bất lực của các chính quyền Trung Hoa, từ vua
chúa tướng lãnh, kể cả Ðảng Cộng Sản như thế nào! Dưới đây là đối chiếu
các chiều kích giữa Trung Quốc và các nước tham chiến một cách sơ lược.
Ngày
18/1/1915, Nhật giao cho Trung Quốc bản yêu sách 25 điểm Chính Phủ của
Viên Thế Khải chấp thuận ngay bốn khoản đầu (815): (1) Nhật kế thừa các
quyền của Ðức ở Sơn Ðông; (2) triển hạn thuế đất đai ở Mãn Châu tới 99
năm. Kiều dân Nhật được tự do buôn bán tại đây; (3) Nhật nắm phần nửa
lợi nhuận ở công ty Hanyeping là công ty điều hành các nhà máy thép tại
Hán Giang, mỏ sắt Daye và than ở Bình Sơn; (4) không miền duyên hải nào
của Trung Quốc được cho thuê hoặc nhượng cho nước khác mà không được sự
đồng ý của Nhật (...) Mặc dù các anh hùng hảo hán của nước Tầu chịu
nhượng bộ gần hết cả tổ quốc nhưng Nhật vẫn không tha.
Năm
1937-1945 các cuộc tấn công của Nhật vào Trung Quốc và Nhật khởi đầu,
chiến tranh thế giới II ở Ðông Á cũng ở đây, 1931 Nhật chiếm Mãn Châu.
Ðạo quân Quan Ðông của Nhật trong đêm diễn tập ở Thẩm Ðương (1819) đã
làm nổ tung đoạn đường sắt gần đó rồi vu khống cho Trung Quốc. Ðây gọi
là biến cố Mãn Châu, lấy cớ đó quân Nhật chiếm kho đạn An Ðông, Giang
Khẩu và Trường Xuân,. Thống chế Tưởng Giới Thạch vội cho đoàn quân chạy
trốn. Kế đó cả ba tỉnh miền Ðông bị chiếm. Ngày 19 quân Nhật đổ bộ lên
Thượng Hải đánh đuổi Bát Lộ Quân 19 của Trung Quốc chạy khỏi Tô Giới
quốc tế như chuột. Nhật chiếm Bắc Kinh ngày 28 và Thiên Tân ngày 29 như
ăn gỏi. Ðây là cuộc tấn công đại quy mô mở ra ở Bắc Trung Quốc vào đến
tận sào huyệt của các danh tướng người Hán. Họ ở cả thủ đô. Không gặp
một sự kháng cự nào.
Người Tầu chẳng có ý chí
gì từ tướng lãnh đến quân lính đông như kiến cỏ mà cứ thi nhau bỏ chạy
chốn một khi nghĩ đến quân Nhật là hồn vía lên mây, kế đó Nhật chiếm Tô
Châu (20/11 và tiến đến vùng sông Dương Tử. Ngày 21 quân Nhật chiếm
Quảng Châu, cũng không gặp sự kháng cự nào. Thừa thắng Nhật chiếm luôn
Kalgan, ở mặt trận khác 3/9 Nhật chiếm Bảo Ðịnh, ngày 2/4, Thạch Gia
Trang. Sau biến cố ngày 18/9/1931 quân Nhật chiếm đóng thành phố Thẩm
Dương. Từ đó làm chủ cả một vùng đất đai rộng lớn ở Ðông Bắc Trung
Quốc. Ðảng CS Trung Quốc với Bát Lộ quân chẳng làm gì, ngoài việc hô
hào dân Tầu chống Nhật, trong khi đó họ lại lẩn chốn. Cuộc Vạn lý
Trường Chinh, được coi như là cuộc di tản chiến thuật, và được coi như
là sự kiện oai hùng nhất của ÐCSTQ. Hai đạo quân trong cuộc tháo chạy
nhục nhã này là quân đoàn 1 do Lâm Bửu (1908-1971) chỉ huy, và quân
đoàn III dưới sự chỉ huy của Bành Ðức Hoài (1898-1974). Tổng số quân là
80.000 nhưng có lẽ chưa tới 16% số binh lính trên thoát chết khi đến
được Thiểm Tây một năm sau đó (20/10/1935) họ đã chạy trốn quân Nhật
với quãng đường dài gần 6.000 dặm qua rất nhiều miền đất hoang vu nguy
hiểm...
15 + 18/1/1935. Tại hội nghị Tuần
Nghĩa (thuộc tỉnh Quý Châu) những đối thủ của Mao trong ban lãnh đạo
DCSTQ bị phê phán nặng nề về việc đã phạm sai lầm Tả khuynh khiến cho
sức chiến đấu của Hồng Quân suy yếu, dẫn đến tình thế phải rời căn cứ
địa và tiến hành Vạn Lý Trường Chinh:
Nhẽ ra
người CS thì phải dấn thân chinh chiến, dấy binh đao. Khôi phục nền độc
lập cho Trung Hoa, ấy thế vậy mà hồi Nhật xâm lược Trung Quốc ÐCSTQ đã
không dám đánh Nhật. Những người lãnh đạo ÐCSTQ quả thật tài tính sáng
suốt, họ biết đánh Nhật, khác gì mang trứng chọi đá, chỉ một trận thì
sẽ bị Nhật diệt sạch sành sanh, không còn một mống nắm chắc trăm phần
trăm thua, và sẽ mất hết (cả chì lẫn chài) binh quyền. Khẩu hiệu thống
nhất chiến tuyến với Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch, mục tiêu của
ÐCSTQ là bảo toàn lực lượng để sau đó có cơ hội giết lẫn nhau. Người
Tầu đánh nhau với Nhật thì quá dở, nhưng họ giết lẫn nhau thì không ai
bằng. Nói cách khác Mao muồn giành lực lượng để sau này đánh nhau với
quân Quốc Dân Ðảng.
Nhưng muốn sống đến
ngày đó chỉ còn cách phải ăn bám và luồn lách vào chính quyền Quốc Dân
Ðảng. 25 tháng 12 Tưởng Giới Thạch bị Mao bắt cóc và giam giữ ở Tây An
do Trương Học Lương thực hiện theo lệnh của Mao. Và được trả tự do khi
ông đồng ý ngừng cuộc nội chiến và hợp tác với ÐCSTQ để chống Nhật.
Trên thực tế ÐCSTQ không có chống Nhật, nhưng cần chỗ nương tựa, tuy
nhiên, Mao Trạch Ðông và ÐCSTQ vẫn tuyên truyền rằng cuộc Trường Chinh
của Hồng Quân là cuộc chiến đấu thần thánh đánh Nhật do Mao chủ tịch
lãnh đạo. Chạy dài dài – mà lại là bước ngoặt đưa Trung Quốc đến thắng
lợi hoàn toàn, kể cũng lạ? và là sự tuyên truyền quá lố quá trắng trợn.
Sự thật Bát Lộ quân chưa đụng Nhật đã hoảng loạn tháo chạy, khẩu hiệu
“Bắc Tiến kháng Nhật” là che đậy cho sự thất bại thảm hại của Bát Lộ
quân tháng 10-1933 đến tháng 1-1934 ÐCSTQ liên tiếp chịu trận và cuộc
tiến công thứ 5 của Quốc Dân Ðảng thì chính quyền trung ương ở nông
thôn của ÐCSTQ lần lượt mất hết căn cứ này đến căn cứ khác, Hồng quân
của Mao buộc phải tháo chạy trốn. Ðó chính là sự thật lịch sử (cuộc
trường chinh), ý đồ là rút quân mở đường máu tháo chạy sang vùng ngoại
Mông Cổ để nhờ quân Liên Xô che trở.
Như
vậy với phía Tây giáp Mông Cổ, nếu không thủ đắc sẽ rút lén tuột về
Liên Xô. Ở phía Bắc Hồng Quân chết gần hết trên đường chạy trốn đến khu
ngoại Mông. Họ chọn con đường rừng đi qua tỉnh Sơn Tây, và Tuy Viễn.
Một mặt có thể nói phét để bịp thiên hạ rằng: Hồng Quân lên phía Bắc để
chuẩn bị kháng Nhật (dân Trung Hoa nhiều người ngu tín, tin là Hồng
Quân dám cả gan đánh Nhật thật) một mặt vừa an toàn cho các lãnh tụ vì
ở đó không có quân Nhật. Bấy giờ quân Nhật chiếm giải Vạn Lý Trường
Thành lập thành chiến tuyến. Sau mấy ngàn năm công lao của Tần Thủy
Hoàng và tiếp theo nhiều triều đại nước Tầu, không phục vụ cho việc
phòng thủ Tổ quốc Trung Hoa, mà lại để cho quân Mông Cổ sử dụng rồi lại
phục vụ cho Nhật. Còn Binh Pháp của Tôn Tử tuy rất hay.
Nhưng
tướng Hán chưa bao giờ mởớ tới. Không biết ông Tưởng Giới Thạch và Mao
Trạch Ðông có nghĩ tới chuyện này không? Cũng xin lưu ý Hồng Quân thoát
hiểm đến Thiển Bắc thì quân chủ lực giảm xuống từ 800 ngàn xuống còn
khoảng 6 ngàn. Nhưng các lãnh tụ thiên tài chạy trốn thì còn sống cả.
Thế mà sách ÐCSTQ viết rằng ÐCSTQ và Mao chủ tịch lãnh đạo quân dân
Trung Quốc kháng chiến chống Nhật thắng lợi vẻ vang... không biết thắng
ở đâu? mà tìm lục không ra?
Còn một sự thật
nữa, cũng cần phải nhắc ở đây là. Khi Nhật đánh Trung Quốc, Quốc Dân
đảng của TT Tưởng Giới Thạch có 1/7 triệu quân, được Mỹ, Anh võ trang,
trong khi đó tháng 11/1937 kể cả Tân Tứ Quân mới thành lập. Toàn bộ
Hồng Quân chỉ có 70 ngàn lính đã thế còn bị chia năm xẻ bẩy vì mưu đồ
chính trị nội bộ đảng... là dương cao ngọn cờ kháng Nhật, nhưng bên
trong tranh thủ gom góp quân các địa phương và du kích để đó, mặt khác
chuyển đại đa số quân binh khỏi chiến tuyến, chứ thực sự ÐCSTQ không có
chiến tích nào đáng kể trong cuộc chiến này. Có chăng là Quốc Dân Ðảng.
Năm 1939, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Mỹ, Anh và Nga quân đội Tưởng Giới
Thạch và Mao lấy lại được chút ít tinh thần.
Chính
phủ của Tưởng Giới Thạch nhận được nhiều viện trợ của Mỹ, Anh, Liên Xô
cho chính quyền Quốc Dân Ðảng nhiều khoản tiền lớn và vũ khí... Quân
Mao cũng ăn ké vào đó. 8/3/1942, Anh và Mỹ cung cấp cho Quốc Dân đảng
50 triệu bảng Anh và Mỹ viện trợ 500 triệu dollars.
Nên
nhớ rằng: khi Hội Quốc Liên và Hoa Kỳ lên án những hoạt động quân sự
của Nhật tại Trung Quốc. Hội nghị các cường quốc ở thủ đô Brussels
(15/11) thất bại trong nhiệm vụ trung gian hòa giải.
20
tháng 11. Chính phủ Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh chuyển đến Trùng
Khánh, nhưng hành chánh công quyền đặt ở Hán Khẩu. Tưởng đến đây ngày
8/12.
12 tháng 12. Biến cố Panay. Máy bay
Nhật oanh kích tầu Anh và Mỹ đang thả neo ngoài khơi gần Nam Kinh. Sự
việc này tạo căng thẳng giữa các cường quốc. Rốt cuộc, chính phủ Mỹ
chấp thuận lời giải thích của Nhật về vụ việc trên. Tuy nhiên, chính
quyền Nhật tiếp tục chính sách cao tay ấn đối với tài sản và quyền lợi
của các nước khác ở Trung Quốc, bất chấp những chống đối từ phía Mỹ,
Anh và Pháp. Tình hình khốc liệt tại Châu Âu cho phép Nhật có thể theo
đuổi ý đồ của mình mà không phải lo đối phó với sự can thiệp từ nước
khác.
13 tháng 12. Nam Kinh thất thủ. Nhật
oanh kích Trân Châu Cảng khiến Mỹ tham chiến chống Nhật mở ra mặt trận
thứ hai ở Thái Bình Dương. Mỹ dành cho Trung Quốc khoản viện trợ 630
triệu USD dưới hình thức quân trang, quân dụng, vũ khí, và khoản tiền
vay 500 triệu USD, tất cả đều được trao cho chính phủ Trùng Khánh.
8/3/1942.
Anh và Mỹ khắc phục nạn lạm phát trầm trọng tại Trung Quốc, cung cấp
khoản tín dụng 50 triệu bảng Anh và 500 triệu USD.
Ngày
8/8/1945 chiến tranh đã chấm dứt tại Châu Âu được vài tháng. Hai ngày
sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Hồng quân Liên Xô tràn vào
Mãn Châu trong tuần lễ tiếp đó. Nhật đầu hàng vô điều kiện – Trung Quốc
dâng đất cho Liên Xô.
Ngày 14-8 Thay mặt quốc
dân đảng. Tổng Tử Văn ký hiệp ước hữu nghị và Liên Minh với cs Liên Xô
(qua mặt ÐCSTQ). Ðể đắp lại việc CS Liên Xô công nhận chính quyền Quốc
Dân Ðảng là chính quyền trung ương của Trung Quốc. Phe Quốc Dân Ðảng
đồng ý về quyền độc lập của Ngoại Mông; Và cho CS Liên Xô quyền sở hữu
chung tuyến đươc sắt Nam Mãn Châu và Cảng Ðại Liêu. Họ cũng nhất trí
dâng cảng Lư Thuận cho Hải quân Liên Xô.
Chiến
tranh đã chấm dứt nhưng Trung Quốc vẫn bị chia rẽ, gầm ghè tranh ăn
giữa Quốc Dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS của Mao Trạch Ðông,
thành ra chẳng đảng nào, quân đội nào của nước Tầu dám đụng đến Nhật.
Có lẽ họ vẫn còn khiếp sợ quân Nhật chăng? Chẳng đặng đừng quân đội Mỹ
lại phải nhẩy vào.
Tháng 8 và tháng 9, quân
Mỹ chiếm Thượng Hải, Thanh Ðảo, Dagu, Quảng Châu và Pusan (Triều Tiên)
rồi tiến vào Bắc Kinh và Thiên Tân. Quân Nhật đã hàng nhưng quân Tầu
vẫn không dám đến gần quân đội Nhật. Buộc quân Mỹ phải bồng các lực
lượng Quốc Dân Ðảng đến các thành phố này để tiếp nhận sự đầu hàng của
Nhật.
Trong khi đó tại Diên An Ðảng CS Trung
Quốc tổ chức Ðại Hội lần thứ VII mừng chiến thắng, lúc này họ đã có ½
triệu đảng viên, binh lực gồm 900,000 quân chuẩn bị ăn thua với Quốc
Dân Ðảng. Trong khi đó họ hô hào: “Người Trung Quốc không hại người
Trung Quốc”. Ðiều này giống hệt giọng điệu Hồ chí Minh năm 1946 cũng hô
hào: “đoàn kết, đại đoàn kết.” Trong khi đó thanh toán những người quốc
gia. Ðảng CS Trung Quốc cũng vậy. Khi cần lợi dụng Quốc Dân Ðảng, họ
kêu gọi: “Sống chung lâu bền” giúp đỡ nhau quản lý, thành thật song
phương, vinh nhục có nhau v.v... Nhưng kết quả là gì? Kháng chiến
Trung-Nhật vừa kết thúc (nhờ đồng minh).
Ðảng
CS Trung Quốc gom toàn lực đánh đuổi chính quyền Quốc Dân Ðảng, ở Việt
Nam cũng vậy... Sau khi thắng Quốc Dân Ðảng. Họ cứ tuyên truyền ồn ào
là Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Mao Chủ
Tịch. Ở VN từ 1945-1954 Hồ chí Minh được coi như thần thánh. Ở nước Tầu
thập niên 50-60 Mao Trạch Ðông được coi như bộ óc vĩ đại nhất của loài
người, thanh niên, đảng viên đã quay cuồng về hình ảnh Mao Trạch Ðông
(Ðông phương hồng – có Mao Trạch Ðông) nhiều người Phương Tây nhìn Mao
như một vị thiên tài xuất chúng. Vị thần tái sinh cứu rỗi loài người:
Dưới ảnh hưởng của các vị hiền thánh danh tiếng như Lenin, Stalin, dân
chúng nhiều nước say mê rồ dại giết lẫn nhau. Cơn si cuồng nhiệt kéo
dài khá lâu, phải có một độ lùi, thoái hóa đáng kể của thời gian các
học giả, sử gia phương Tây mới nhìn rõ chân dung thật của Mao Trạch
Ðông. Một trong những tên đao phủ kinh tởm nhất lịch sử nhân loại, cũng
như sự ngu dốt tối tăm của Hồ chí Minh.
Nhưng
đa số người Trung Quốc đến nay vẫn tin Ðảng CS Trung Quốc dưới sự lãnh
đạo của Mao Trạch Ðông, đã giải thoát cho tổ quốc Trung Hoa.
Sự
thực ai nghiên cứu lịch sử cũng biết. Chính đế quốc Mỹ và đồng minh đã
giải thoát cho nước Tầu. Chứ cả Quốc Dân Ðảng lẫn Đảng CS Trung Quốc
đối với người Nhật họ chẳng có Kg nào. Bây giờ thì Trung Quốc đã dư ăn
và có nhiều vũ khí tối tân đấy nhưng cũng đừng có sợ, vũ khí nào thì
cũng còn phải do con người chứ? Không phải bây giờ người Tầu mới thiếu
dũng khí đâu, tổ tiên, ông cha của họ đã thế rồi.
Cuối
thế kỷ thứ 20, đầu thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật, kinh tế phát triển...
kèm theo sự huỷ hoại môi trường sống với nhiều hậu quả ngày càng rõ
rệt! Loài người là một bộ phận của tự nhiên. Sống trong thiên nhiên,
không được phép hủy hoại môi trường sống bằng cách phá hoại và xả các
độc tố hoá học vào không gian, gây chiến tranh v.v... Nhưng chất độc
tinh thần mới là chủ chốt trong các loại chất độc gây thảm hoạ cho nhân
loại. Kẻ thù của nhân loại ngày nay càng lộ nguyên hình. Đó là tư tưởng
và hành động bành trướng, với chính sách diệt chủng của giới lãnh đạo
Bắc Kinh, như ở Tây Tạng, Cao Miên, Miến Điện Darfur v.v... trong các
chế độ độc tài diệt chủng hiện nay trên thế giới đều là sản phẩm của
Bắc Kinh. Nạn diệt chủng lan toả khắp thế giới!
Trong
lúc cục diện toàn cầu đang có xu hướng hoà dịu, giảm dần đối đầu. Nhưng
ở khu vực Á Châu, Thái Bình Dương, yếu tố bất ổn và khả năng xung đột
khu vực ngày càng tăng do tham vọng quá độ của giới lãnh đạo Bắc Kinh.
Gần
đây Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân hiện đại ở đảo Hải Nam. Một
bức ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã âm thầm xây dựng một hải cảng
quân sự có thể chữa hàng chục tầu ngầm hạt nhân, gây quan ngại cho các
nước trong khu vực, cũng như Hoa Kỳ. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ ông Robert
Gate tuyên bố rằng “Hoa Kỳ sẽ không bao giờ bỏ rơi các nước trong vùng
Châu Á.” Còn viên tướng chỉ huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương
là Ðô Ðốc Keating cho biết: “Mỹ không có ý định từ bỏ ưu thế quân sự ở
Châu Á, sau khi có tin Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ hải quân
hiện đại ở đảo Hải Nam. Theo tuần san Quốc Phòng Jan’s ở Anh và các nhà
phân tích quân sự, căn cứ hải quân ở thành phố Nam Á có khả năng để cho
hai hàng không mẫu hạm cập bến và có chỗ trú ẩn cho 20 chiếc tiềm thủy
đỉnh hạt nhân. Ðô đốc Keating hối thúc giới lãnh đạo Bắc Kinh chớ dồn
các nguồn lực của mình vào những hoạt động như vậy.”
Ðô
đốc Keating nói thêm rằng các nhà lãnh đạo ở Trung Nam Hải không nên kỳ
vọng là Trung Quốc có khả năng trở thành một cường quốc quân sự có khả
năng khống chế Châu Á.
Ông Keating nói: “Có
một việc tuyệt đối cần thiết mà chúng tôi phải làm là tiếp tục thực
hiện cuộc đối thoại với các nhân vật tương nhiệm của phía Trung Quốc,
tiến hành những hoạt động giao lưu, chia sẻ chiến thuật, kỹ thuật và
qui trình với mục tiêu chủ yếu là để cho Trung Quốc hiểu được vai trò
vượt trội của chúng tôi như một quân lực có khả năng chế ngự ở Thái
Bình Dương, để họ hiểu được là chúng tôi kiên quyết duy trì vị thế này,
và biết được là chúng tôi hy vọng và tin tưởng là họ không tìm cách
đương cự chúng tôi về mặt quân sự.”
Theo Ðôc Ðốc Keating, Trung Quốc chắc chắn sẽ gặp thất bại nếu họ có mưu toan như thế.
Trong
những năm gần đây, các giới chức Hoa Kỳ nhiều lần nói rằng việc Trung
Quốc gia tăng chi tiêu quân sự tự nó không gây ra một mối đe dọa cho
Hoa Kỳ, nếu hành động này không đi kèm với những ý đồ thù nghịch. Ðô
Ðốc Keating cho biết ông nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc đối đầu quân sự
giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, ít ra là trong tương lai gần.
Ðô
Ðốc Keating nói: “Chúng tôi đang làm những gì có thể làm ở Bộ Tư Lệnh
Thái Bình Dương – và huy động mọi ban nghành và năng lực của mình, để
bảo đảm với Trung Quốc là chúng tôi không muốn gây thiệt hại cho họ, và
khu vực Thái Bình Dương có đủ chỗ để hoạt động cho tất cả mọi nước.”
Ðây không phải là những lời nói có tính chất ngoại giao mà là một thông điệp chính thức gửi đến Bắc Kinh.
Sự
thể sẽ rất xấu, trước hết là đối với các quốc gia trong vùng cái họa
bành trướng của Trung Quốc, và nếu cuộc đối đầu bằng hạt nhân xẩy ra
giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á. Chắc chắn những tổn hại về
nhân mạng và vật chất không thể lường được. Trung Quốc đang tác oai,
tác quái trong khu vực, họ cao ngạo, hung hăng xem thường thế giới vào
lúc này Trung Quốc giương cao ngọn cờ mới 6 sao (lục tộc cộng hòa) ở
Biển Ðông, làm cho các nước Ðông Nam Á hoảng sợ, đồng thời thế giới
thấy rõ tham vọng bá quyền bành trướng của Trung Quốc, là sự ngông
cuồng đầy thách đố thiên hạ, lại còn công bố bản đồ mới của Trung Quốc
2007 với vùng An Vạn Bắc Biển Ðông rộng 5 triệu Km2, thêm một thách đố
khác với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Úc... Sách lược bành trướng và hải dương
Nam tiến tham vọng nắm đầu thế giới. Bắc Kinh hàm hồ vội vã xây dựng
thành phố Tam Sa, tự ý khoanh vạch một vùng rộng 5 triệu Km2 biển Ðông
gọi là chủ quyền của Trung Quốc!
Ý đồ của họ
là đặt tuyến giao thông quốc tế Ðông Tây từ eo biển Malacca đến biển
đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc! Vậy các tầu dầu hàng hóa từ Tây
qua Ðông đến Ðài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản. Kể cả hạm đội Thái Bình
Dương của Mỹ cũng phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc. Họ muốn đóng
lại vai trò của Thành Cát Tư Hãn chăng?
Thật là cuồng vọng, hoang tưởng, nếu họ đạt mục đích này. Ngoại trừ Trung Quốc khuất phục được Nhật, đánh bại được Mỹ.
Cái
tham lam vô hạn độ của Trung Quốc. Không phải chỉ cần hãm lại, mà cần
phải đánh quỵ, trước khi nó hành động gây họa cho nhân loại.
Những
chiến lược gia trí tuệ mẫn cảm siêu quần ở hàng đầu, trong sự phát
triển lịch sử quân sự Hoa Kỳ ắt phải nhìn xa thấy rộng, trong bối cảnh
của thời đại, để đề ra những phương hướng chiến lược hoặc sử dụng lựa
chọn phương pháp tối ưu để đối phó với Trung Cộng. Am tường sâu sắc đối
phương, tìm hiểu những thực tiễn xã hội và con người Trung Hoa, đến các
cấp lãnh đạo của họ là điều không thể thiếu, mà mỗi bước tiến của lịch
sử đều có vô vàn mâu thuẫn xã hội, chính trị, đặc biệt độc đáo đòi hỏi
con người phải suy nghĩ thăm dò trước khi giải quyết vấn đề.
Ông
Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gate và Ngài Ðô Ðốc Hải Quân Keating chỉ
huy các lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương hẳn là phải từ các trường
Ðại Học Quốc Phòng Mỹ mà ra. Tất họ phải nghiên cứu binh pháp của Tôn
Tử: “Biết địch biết mình giành thắng lợi không gặp hiểm nguy. Biết
thiên thời địa lợi nữa, giành thắng lợi mới thật chắc chắn!”
Huấn
lệnh của Tư Lệnh hải quân lục chiến Hoa Kỳ năm 1989 viết: “Tư tưởng tác
chiến của Tôn Tử vẫn thích dụng cho ngày hôm nay cũng như 2500 năm
trước.” Tương kế tựu kế Mỹ nên dùng Binh Pháp Tôn Tử. Nhà chiến lược
nổi tiếng người Anh ông Kaso trong cuốn sách bàn về chiến lược viết:
“Chiến lược hoàn mỹ nhất, cũng chính là chiến lược không cần phải qua
chiến đấu gay go mà vẫn đạt tới mục đích. Ở Pháp: năm 1772, linh mục P.
Amiot đã dịch và xuất bản ở Paris tùng thư: Binh Pháp Tôn Tử. Ðây là
bản Binh Pháp Tôn Tử được dịch sớm nhất ở Phương Tây: Lúc đó một tạp
chí lý luận quân sự Pháp viết: “Nếu các tướng lãnh chỉ huy quân đội
Pháp đều được đọc Binh Pháp Tôn Tử này thì thật là phúc lớn cho nước
Pháp”.
Quả thực Binh Pháp Tôn Tử lần đầu
tiên đưa ra một hệ thống lý luận hoàn chỉnh về chiến tranh và quân sự,
trình bày một loạt các nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh, các ý tưởng mà
phần lớn trong đó đã trở thành những danh ngôn có sức sống lâu dài.
Hiện
trường Ðại Học Quốc Phòng Mỹ, xếp Binh Pháp Tôn Tử trước cả tác phẩm
bàn về chiến tranh của Clausewitz. Binh Pháp Tôn Tử được dịch từ Hán
Văn ra Nga năm 1957, ra tiếng Anh 1905, tiếng Pháp từ năm 1772. Ở Ðức
1910 - Ðặc biệt là ở Nhật vào thời Võ Tắc Thiên đời Ðường (684-704, một
người Nhật là ông Cát Bi Châu Bi (Kimino Makibi) đã mang binh pháp Tôn
Tử về Nhật truyền thụ lại cho giới tướng lãnh Nhật. Từ đó phong trào
học tập binh pháp Tôn Tử liên tục diễn ra, giới quân sự cho rằng:
“Khổng Phu Tử là Thánh Nho, Tôn Phu Tử là Thánh binh. Nhưng nhà Nho đời
sau không thể tìm thấy Ðạo Nho ở đây ngoài Khổng Phu Tử, nhưng binh gia
không thể quay lưng lại với Tôn Phu Tử mà tiến theo hướng khác”. Các
tướng Nhật thời cận đại đã ứng dụng binh pháp Tôn Tử đánh cho người
Khổng Lô Trung Quốc không ngóc đầu dậy được. Ở nước ta Tôn Tử binh pháp
đã được truyền bá từ cuối thế kỷ thứ 9, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, đã hiểu sâu binh pháp Tôn Tử và vận dụng một
cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, tiến hành thắng lợi,
các cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của kẻ thù phương Bắc.
Trong
thiên Mưu Công, tác phẩm đã đề xuất nhiều lý lẽ toát lên tinh thần tổng
quát là: Phải tìm cách giành thắng lợi tối đa bằng một giá tối thiểu.
Danh ngôn: “Người đánh trăm trận thắng cả trăm chưa thể kể là người tài
giỏi nhất. Không đánh mà buộc đối phương đầu hàng mới là người giỏi
nhất” đã trở thành tiêu chuẩn hướng dẫn hành động của các nhà chiến
lược quân sự xưa nay.
Nếu bài học có thể rút
ra từ chiến tranh Việt Nam, I-rắc, với Trung Quốc, Hoa Kỳ chỉ cần yểm
trợ hậu cần cho những quốc gia láng giềng của Trung Quốc có khả năng
chiến đấu như Tây Tạng. Nơi đó chính là mồ chôn vĩnh viễn chủ nghĩa bá
quyền Trung Quốc. (Xin xem bài: “Trung Quốc là kẻ thù của thế giới” để
bạn có thể quán triệt được mọi vấn đề sinh tử của Trung Quốc ở Tây Tạng
trong các websites chẳng hạn như VietnamExodus, Vietvungvinh,
NsVietNam, Doithoai v.v...)
TRẦN NHU
August 8, 2008.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét