Thưa quí vị và tất cả anh em binh sĩ trong quân đội nhân dân Việt Nam.
Trước
hết cần nói rõ một điều kiện: Tôi không làm chính trị, và không có ý
định làm việc đó. Tôi chỉ là một công dân Việt Nam. Nhưng trong cơn
quốc biến, mọi người công dân Việt Nam phải gánh phần trách nhiệm của
mình. Chính vì vậy mà lá thư nầy được gửi tới quí vị và anh em binh sĩ.
Như quí vị đã biết, chúng ta đang ở trong một khoảnh khắc vô cùng
nghiêm trọng của lịch sử, Trung Cộng đã và đang lấn chiếm các vùng biên
giới lãnh thổ và lãnh hải nước ta. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam hoàn
toàn tảng lờ, coi như không có chuyện gì xảy ra, họ không có phản ứng
gì, ngược lại một số người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã hợp tác
với giặc, vì quyền lợi riêng của phe cánh, họ đã cam tâm dâng hàng mấy
ngàn cây số vuông đất đai và một phần vùng Vịnh Bắc Việt của Tổ Tiên
cho giặc Tàu. Việc này gây kinh hoàng cho cả nước. Nó sẽ dẫn tới những
hậu quả xấu không lường.
Ngày
xưa thì có Trần ích Tắc, Lê Chiêu Thống, những người mà cha ông ta gọi
là “Cõng rắn cắn gà nhà”, “Rước voi dày mả Tổ”. Ngày nay bọn Mười, Anh,
Trà, đang làm tôi tớ cho Bắc Kinh, rước quan thái thú Hồ Cẩm Đào qua Hà
Nội hà hơi tiếp sức, hù dọa dân ta như Lê Chiêu Thống. Thì Tướng lãnh
như các ông, còn hy vọng trông mong gì nơi họ ? Nói đạo lý thì các ông
ăn cơm dân, mặc quân phục do dân cấp. Giặc vào nhà, sao có thể làm ngơ?
Bọn Việt gian Mười, Anh, thì lộng hành nghênh ngang công khai làm tay
sai cho giặc. Bọn họ đã thực sự trở thành vật cản nguy hiểm cho lịch sử
dân tộc. Kìm hãm mọi sự phát triển của đất nước. Vậy hãy loại trừ chúng
đi để cho dân tộc Việt Nam đi lên từ đây, từ lúc này. Hỡi những người
mặc áo lính. Lịch sử nước Việt Nam phải chuyển sang một giai đoạn mới.
Những
người Việt Nam biết suy nghĩ, có lương tâm và lòng tự trọng phải biết
xấu hổ, biết sỉ nhục, khi đất nước mất độc lập, khi bị ngoại bang khống
chế, chiếm mấy chục ngàn cây số vuông đất đai. Và phải nhớ rằng, Trung
Hoa là mối đe doạ thường trực lúc nào chúng cũng chỉ lăm le muốn chiếm
cả Việt Nam.
Đối
với người Việt Nam ta, người Tàu lòng dạ họ như những bụi gai và không
bao giờ hết tàn ác, ngay thời đại ngày nay, ngày 17 tháng 2 năm 1979,
Đặng Tiểu Bình đã xua 8 Quân Đòan cộng thêm 2 Sư Đoàn độc lập, với hàng
ngàn xe tăng, xe bọc thép, hàng chục ngàn khẩu đại pháo bất ngờ mở cuộc
tấn công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, từ Quảng
Ninh đến Lai Châu,đến đâu chúng thi hành chính sách diệt chủng: Giết
sạch, đốt sạch, phá sạch, đến nỗi các hạ tầng cơ sở, vùng mỏ không còn
một cái xẻng nguyên vẹn để xúc, Thị xã Lạng Sơn và vùng phụ cận không
còn sót lấy một viên gạch lành, còn dân ta, chúng bắt được già trẻ,
trai gái, lột truồng cho xe tăng nghiền nát và thử hỏi, cổ kim đông tây
có sự tàn bạo dã man nào hơn giặc Tàu ? Mà chính các ông đã tận mắt
chứng kiến sự man rợ của họ. Tại sao chúng ta không nhìn vào tấm gương
lớn của lịch sử? Và có lẽ nào ta lại quên chuyện vừa mới xảy ra đầu năm
nay. Bọn lính Tàu đã vô cớ bắn chết chín ngư phủ Việt Nam. Họ là đồng
bào của các ông.
Hỡi
các tướng lãnh, hỡi những người lính đã chiến đấu chống giặc Tàu năm
1979, các bạn đã bị phản bội! Bọn lãnh đạo đảng Cộng Sản đang hân hoan
nâng cốc chúc mừng giặc Tàu, chúng đang cao giọng đồng ca bài “ Việt
Nam Trung Hoa, Núi liền Núi, Sông liền Sông”,” mối tình thắm thiết Việt
Hoa vừa là đồng chí vừa là anh em”, một cách trơ tráo vô liêm sỉ nhất.
Thưa quí vị.
Lâu
nay dân ta bị những người lãnh đạo đảng cộng sản lừa dối. Vì rằng có
nhiều việc liên hệ đến quyền lợi dân tộc và vận mệnh của Tổ Quốc, họ
không bao giờ nói thật, và công bố sự thật cho dân biết những hiệp ước
họ đã ký với Bắc Kinh, mà không hề được các ban, các ngành viện chuyên
môn nghiên cứu xem xét trước. Bất chấp cả nhà nước, lãnh đạo đảng trên
hết, Tổng Bí Thư ký hiệp định, bằng một loạt các hiệp ước mù mờ, nguy
hiểm và bất bình đảng vẫn hạ bút ký. Bên cạnh họ là một lũ ươn hèn, ngu
tối, bất lực, chấp nhận những đòi hỏi ngang ngược của Bắc Kinh. Trong
đó có việc cắt nhượng nhiều vùng đất trên biên giới như khu vực Bình Độ
400 thuộc huyện Cao Lộc, và hai dãy núi thuộc xã Quốc Khánh, huyện
Tràng Định, Tỉnh Lạng Sơn; 5 dãy núi thuộc huyện Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà
Giang , ngoài Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc cho giặc Tàu….. Chưa hết,
trong vùng vịnh Bắc Việt, Lãnh đạo Đảng Cộng sản Vịêt nam còn thiết lập
đường biên giới mới và nhượng cho Trung cộng hơn 11,000 cây số vuông.
Đó là chưa kể đến việc cho Trung cộng chính thức vào khai thác tài
nguyên trong vùng Vịnh.
Mọi
người công dân của nước này, ắt phải đau lòng khi thấy nhà cầm quyền tự
ấn vào tay Bắc Triều những vùng đất, vùng biển mà ông cha ta đã đổ biết
bao nhiêu xương máu để gìn giữ từng tấc đất.
Hỡi
nhũng người Việt Nam: Quyết không thể để cho bọn Việt gian tiếp tục
dâng đất cho giặc, và trước khi mọi việc trở nên quá trễ. Tất cả công
dân Việt Nam bằng mọi cách loại trừ những kẻ bất lương trong nhóm lãnh
đạo đảng Cộng sản đang liên minh với Bắc Kinh, cảnh báo trước những tai
hoạ hợp tác với Trung Cộng. Nhóm lãnh đạo này đã ký kết nhiều, văn kiện
mà chúng không công bố trước quốc dân. Chúng thực hiện phương châm mười
sáu chữ Vàng của Trung cộng: “Láng giềng hữu nghị hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai.” (Dẫn lời phát biểu của Tề Kiến Quốc
đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Trung Cọng tại buổi chiêu đãi kỷ niệm
lần thứ 55 , ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Việt, tổ chức tại
Hà Nội ngày 14 tháng 01 năm 2005).
Trung
cộng chủ trương: “hợp tác toàn diện” và “nhất thể hoá khu vực” nghĩa là
thực hiện âm ưu “Trung Quốc hoá”. Theo Tân Hoa Xã ngày 02, 12. 2000,
khi nói về hợp tác toàn diện, bản tuyên bố hữu nghị Việt Trung giữa
người lãnh đạo hai đảng tập trung vào 3 nội dung chủ yếu: Quan hệ chính
trị, quan hệ kinh tế, và quan hệ giáo dục. Cùng thời kỳ Lê khả Phiêu ký
hiệp định biên giới năm 2000, còn có bài viết của Cổ Tiêu Tùng, giáo sư
nghiên cứu Đông Nam Á, Viện khoa học xã hội Quảng Tây Trung quốc, nói
về việc “nhất thể hoá” vành đai kinh tế: vịnh Bắc Bộ là quan trọng nhất
trong hợp tác giữa Trung quốc, Việt Nam và các nước Asean, vùng duyên
hải phía Tây Bắc Thái Bình Dương.
Sự
liên thông vành đai này có thể làm cho vùng Đông Bắc Á, với Đông Nam Á
liên kết lại, hình thành toàn diện và sâu rộng về chính trị. Nó đẩy
mạnh mẽ hơn nữa sự mở rộng phát triển của Trung Quốc. Với Việt Nam thì
vành đai hành lang bao gồm các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị. Mười tỉnh duyên hải vịnh Bắc Bộ mở rộng cửa toàn bộ khu vực miền
Bắc. Để những khu vực này trực tiếp có ảnh hưởng của Trung Cộng (bao
gồm toàn bộ Quảng Tây, toàn bộ đảo Hải Nam, và Quảng Đông), chúng đang
xây dựng nhiều tuyến đường cao tốc nối liền giữa Trung quốc với các
tỉnh Việt Nam.
Đây
là quy hoạch chung theo nghĩa đen, Việt Nam thành một tỉnh tự trị của
Trung Quốc, trong cái gọi là “hợp tác toàn diện”, và “nhất thể hoá khu
vực”. Tất nhiên vịnh Cam Ranh và các tỉnh phía Nam cũng nằm trong vành
đai này. Cho nên các hiệp ước mà Lê Khả Phiêu ký với Bắc Triều năm
1999- 2000 về biên giới trên đất liền, phân định vịnh Bắc Bộ, cho đến
bảy văn kiện hợp tác với Trung cộng khi Hồ Cẩm Đào đến Hà nội ngày 31
tháng 10 năm 2005 vừa qua được bộ chính trị đảng Cộng sản nhắm mắt, cúi
đầu ký một cách mau lẹ, đều đã được nằm sẵn trong âm mưu xâm lăng, và
ăn cướp công khai, ăn hiếp một cách lộ liễu, thô bỉ. Thí dụ như cái gọi
là: “Hiệp ước hợp tác nghề đánh cá vịnh Bắc Bộ, người Tàu bắt được ngàn
con cá, ngư phủ Việt Nam khó bắt được một con, vì không có phương tiện
mà lại dễ bi cho ăn đạn, hay như Hiệp định Trung Cộng Việt Nam cùng
tuần tra chung vùng biển Bắc Bộ, mà Phạm Văn Trà vừa ký với giặc, chỉ
có nghĩa là Trung Quốc toàn quyền kiểm soát vùng biển Bắc Bộ mà thôi.
Còn trong Bảy văn kiện hợp tác Trung quốc, trong đó có việc Trung Quốc
sẽ cung cấp điện đại qui mô cho Việt Nam, nếu nó không hài lòng điều gì
với các anh. Nó sẽ cúp điện thì Hà Nội thắp đèn dầu!
Bọn
lãnh đạo đảng Cộng sản đối với đồng bào thì tàn nhẫn và thù hằn dai
dẳng. Trong những đợt vượt biên từ sau mùa bão máu năm 1975 bao nhiêu
người đã chìm trong lòng biển? Những người còn sống nhiều người bị tù
đày, bị cướp đoạt, bị lừa gạt năm lần bảy lượt, nhưng trong trái tim
của họ vẫn đượm màu độ lượng hơn là hận thù, hằng năm họ vẫn gửi về
Việt nam hàng mấy tỷ dollars. Trong lúc những tấm bia tưởng niệm đồng
bào bạc phước ở đảo Ga Lăng, Bi-Đông, Palawan, những người lãnh đạo Hà
Nội tìm mọi cách đập phá. Họ làm cho người chết không được sự yên tĩnh.
Đối với đồng bào thì như vậy. Nhưng đối với kẻ thù thì tỏ ra quá hèn
hạ, lú lẫn, u mê, quên cả chuyện vừa mới xảy ra cuộc chiến tàn bạo của
giặc Tàu năm 1979. Với các công trình viện trợ hợp tác xây dựng của
Trung Quốc với Việt Nam, khi có sự bất đồng với nhau, họ lập tức rút
các chuyên gia về nước, tự ý phá bỏ các hợp đồng, và phá huỷ tất cả các
công trình không còn một cái nào có thể hoạt động được! Rồi lại còn
chuyện Tàu mua sừng trâu giá cao, mua ngô non v.v. để triệt hạ dân
Việt! Người Tàu không từ một thủ đoạn đê hèn nào đối với người Việt.
Thật
là bất hạnh cho những quốc gia nào có biên giới chung với nước Tàu.
Chúng là người láng giềng tham tàn độc ác, hèn hạ nhất. Không có thể
hợp tác với chúng. Tất cả việc hợp tác với Trung Cộng mà đảng Cộng sản
Việt Nam đã ký kết với Bắc Kinh đều là xiềng xích tinh thần và vật
chất, hết sức nguy hiểm cho đất nước. Không thể để cho chúng “hợp tác
toàn diện” với giặc.
Hãy
để một bàn tay rắn rỏi loại trừ tức khắc bọn Việt gian bán nước, và làm
cho chính quyền lành mạnh! Mỗi hành động đi đêm với Bắc Kinh đều vi
phạm quyền lợi của dân tộc phải được xử lý nghiêm minh.
Tôi
tin tưởng rằng, nguồn ánh sáng chính nghĩa sẽ soi rọi cho chúng ta
trong nhiệm vụ trừ gian cứu nước. Có ai là người Việt Nam lại từ chối
nghĩa vụ cao cả này? mà toàn dân Việt Nam sẽ đón nhận nó, và tôi cũng
tin là bất cứ ai trong chúng ta, trừ bọn Mười, Anh, Trà…. muốn mình trở
thành người Tàu. Tất cả sức lực, niềm tin và sự hy sinh mà chúng ta sẵn
sàng hiến dâng cho Tổ quốc Việt Nam, sẽ toả sáng và được thế giới ủng
hộ.
Thưa
quí vị và các chiến sĩ trong quân đội nhân dân Việt Nam. Không còn con
đường nào khác, không còn lựa chọn nào hơn là phải ra tay trừ khử những
tên Việt Gian trong nước trước. Cả dân tộc đang mong đợi các vị. Ai làm
được việc đó, tên tuổi sẽ rực rỡ muôn đời, nêu danh muôn thuở.
Thưa
quí vị, tôi không gửi tới quí vị và các chiến sĩ thông điệp chiến
tranh. Nhưng sẽ sai lầm và ngu xuẩn tin là có thể dùng lẽ phải để
thuyết phục được bọn Việt gian tỉnh ngộ. Các vị đã biết đấy, sau hàng
ngàn những kiến nghị, góp ý, những lời khuyên răn và can gián quí báu
của những người có tâm huyết trong và ngoài đảng, kể cả những tướng
lãnh và nhiều cựu viên chức cao cấp như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp cùng các tướng Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Nguyễn
Trọng, Lê Văn Hiền, Phạm Hồng Sơn, Đoàn Y Thành, Nguyễn Nam Khánh, các
Đại tá như Thiết Vi Hùng, Trần Quốc Thuần v.v…
Giớí
trí thức, Phan Đình Diệu, Gs. Trần Văn Hà, Gs. Sử học Dương trung Quốc…
các cán bộ văn phòng Quốc Hội như Luật sư Trần Quốc Thuận, Trần Văn
Lâm…. Các nhà báo Trần đình Bá, Nguyễn Trần Thiết v.v… đã không thể
dùng lẽ phải và giải pháp ôn hoà để thuyết phục được bọn Đỗ Mười, Lê
Đức Anh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Khoa Điềm… Tất cả
lời khuyên không lay chuyển được họ. Bọn này một mực dựa vào Bắc Triều
để bảo vệ quyền lợi. Chúng cúi đầu thần phục, noi gương Mạc Đăng Dung
ngày xưa dâng đất năm động. Còn bọn Việt gian bây giờ, dâng đất, dâng
biển.
Hỡi
những người lính: Quân đội là bức tường thành bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
lãnh thổ. Mục đích to lớn trọng đại của quốc gia là duy trì bảo vệ
những tài nguyên của đất nước và chống lại mọi nguy cơ xâm lấn của
ngoại bang.
Thực
hiện những việc làm trên là nhằm bảo vệ nền độc lập, bảo vệ quyền lợi
tự do của người dân. Ở nước nào cũng vậy, tố chất quân đội quốc gia,
bao giờ cũng gắn bó mật thiết với tố chất dân tộc của quốc gia đó.
Nhưng khi nó bị nhào nặn trong chế độ chính trị không hoàn thiện, thì
quân đội ấy không còn quân đội lý tưởng của dân tộc nữa. Chỉ khi nào
nhân dân thấy ở người lính thực sự là nơi an toàn để gởi gắm quyền lợi
và tự do, mới đúng nghĩa quân đội nhân dân.
Các
bạn thân mến. Nhân dân phải làm việc cực nhọc để tạo ra của cải, nộp
thuế cho nhà nước một phần để nuôi quân đội, mà niềm vui nỗi buồn của
người lính có quan hệ máu thịt với sự sinh tồn của dân tộc. Các bạn đều
là con em của nhân dân, phải bảo vệ họ. Không phải người lính đổ xương
máu ra để bảo vệ một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lẽ ra xương máu của anh em đổ
ra để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ sự an lành cho dân. Nhưng lâu nay máu của
các bạn đổ ra và mồ hôi nước mắt của dân đổ ra đã bị những con muỗi
mòng, con đỉa ở Bộ Chính trị hút kiệt. Nhà văn Dương Thu Hương gọi
chúng là những con giòi bự, nhưng chưa giải thích rõ nó từ đâu sinh ra.
Nó từ đống phân tư tưởng Hồ Chí Minh hủ hoá với ruồi nhặng Mao đẻ
trứng, trứng nở ra giòi, cái quả từ cái nhân gieo tạo ra.
Hồ
Chí Minh với chiến lược trồng người, đào luyện con người xã hội chủ
nghĩa sinh ra toàn bọn sâu dân mọt nước, cả đảng lẫn chính quyền không
có bộ mặt nào sạch sẽ. Bà Dương Thu Hương nhờn tởm chúng. Trong lá thư
trả lời ông Đinh Ngọc Ninh ở Pháp, bà viết: “Hãy nhìn lại những con
giòi khổng lồ thời hiện đại Hà Nội đang lưu truyền bản photocopie trên
đó đăng thứ tự 50 con giòi hạng một, những con giòi chủ nhà bank khắp
thế giới, nhiều nhất là ở Mỹ và Thuỵ Sĩ. Mức tiền thấp nhất là trên 600
triệu USD… Tôi không phải chủ nhà Bank nên không biết rõ ngân khoản
thấp nhất hay cao nhất là bao nhiêu.
Nhưng
tôi biết một số vụ “làm ăn” của các bự giòi, con thì ăn cắp một nửa số
cement đổ làm hồ thuỷ điện Hoà Bình khiến mỗi năm một lần mời chuyên
gia Hà Lan sang hàn vết nứt, mỗi lần tốn kém hằng trăm triệu USD. Và
các ngân hàng bị huy động chạy nháo nhác như cứu hoả, con thì mua tàu
bãi rác của Hải quân Nga thải đi sơn quét lại mang về lúc diễn tập sự
việc đổ bể mới biết, con thì mua tên lửa Nga đã tịt ngòi đem về bắn
không nổ, mang tàu trục vớt không được phải thuê dân chài mò lên, con
thì cướp ngân quỹ quốc gia cho vợ trổ tài xây sân bay trên đảo hàng tỷ
USD, ngày khánh thành cả sân bay, máy bay, phi công bị sập chìm xuống
biển vô tăm tức, báo chí không được phép đưa tin” Bà Dương thu Hương
than phiền, “không đủ giấy và đủ thờì gian để liệt kê 50 con giòi cấp
một , làm sao có thể đủ kiên nhẫn kể cho ông nghe những con giòi cấp
hai và cấp ba.”
Tiền
bạc hút xương máu của dân nhiều đến thế. Còn nhà ở của bọn chúng là
những toà biệt thự sang trọng, những đồ vật cực kỳ lộng lẫy, vương giả,
mà đến một quốc vương cũng phải thèm muốn. Thế mà đó lại chính là con
người vô sản, giản dị, khiêm tốn mà người ta gọi là người đầy tớ của
dân. Nhưng giữa cái tên và sự việc lại là một việc khác biệt quá lớn.
Các
bạn đã hy sinh cả cuộc sống của chính bản thân mình để rồi cuối cùng
đau xót nhận ra rằng phần thưởng những cống hiến của các bạn chỉ là sự
lừa dối. Và đã bị bọn họ lợi dụng trở thành lá bài hộ mệnh cho một nền
độc tài đảng trị, mà mỗi đảng phái chỉ là một thiểu số người trong cộng
đồng dân tộc. Nếu chỉ mang ý tưởng của đảng mình ra áp dụng thay vì
nguyện vọng của toàn dân là một lỗi lầm lớn. Nhưng kể từ năm 1954. đây
là lần đầu tiên của Việt Nam: một chính quyền áp dụng công khai nguyên
tắc đảng lãnh đạo (có một nhóm người đứng ra thống trị cả một dân tộc,
trên cả Tổ quốc.) Đây cũng là một điều ngu xuẩn trái đạo lý phi dân
tộc, phản nhân văn. Người có trí thức, phải biết rằng, đảng phái nào dù
ưu việt đến đâu cũng phải đặt Tổ quốc và quyền lợi dân tộc lên trên
hết, kể cả các tôn giáo, hết thảy phải tôn trọng nguyên tắc này, không
bao giờ vượt qua phạm vi đó.
Nhân
đây, tôi cũng muốn nói với những người lãnh đạo đảng cộng sản rằng:
Lịch sử các nước văn minh, phát triển không cần có đảng Cộng sản lãnh
đạo, như nước Đức, nước Mỹ, nước Nhật v.v…ngược lại nước nào có đảng
Cộng sản lãnh đạo, tất nhiên là bị bần cùng hóa, thoái hoá, lạc hậu,
tụt hậu như Cu Ba, Bắc Hàn, Việt Nam v.v…Và cũng không cần đảng cộng
sản lãnh đạo, người ta vẫn dành được độc lập. Nên biết rằng ở thời điểm
năm 1945 – 1946, sau đệ nhị thế chiến, các nước Anh, Mỹ, Pháp đã lần
lược trao chủ quyền độc lập cho nhiều quốc gia “ phi liên kết”.
Năm
1947 chính phủ Lao Động Anh dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Attlee đã
trao chủ quyền độc lập cho Ấn Độ, Tích Lan, và Miến Điện, Mỹ trao trả
độc lập cho Philippines năm 1957. Thủ tướng Pháp Guy Mollet cũng đã
trao chủ quyền quốc gia cho Tunisie và Ma Rốc năm 1956. Sau nầy quân Mỹ
đến miền Nam Việt Nam, là do sự mời gọi của cộng sản Nga Tàu, bọn bành
trướng đế quốc đỏ. Giống như quân đội Mỹ đến tham chiến ở Triều Tiên
năm 1951, chủ trương của Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng Hoà giữ vững nền độc
lập, không phải muốn biến nơi đây thành thuộc địa, như người Pháp trước
kia. Hiện còn mấy chục ngàn quân Mỹ đóng ở Nam Hàn, và một điều hiển
nhiên, ai cũng biết. Sau Đệ Nhị Thế Chiến đến nay vẫn còn mấy chục ngàn
quân My đóng ở Tây Đức. Ở nước Nhật quân Mỹ còn mấy chục ngàn, nhưng
không có ai bảo Nước Đức, Nước Nhật, Nước Đại Hàn là tay sai của đế
quốc Mỹ hay các nước nầy bị Mỹ đô hộ. Thế mà bao nhiêu năm nay Đảng
Cộng sản Việt nam cứ lợi dụng khẩu hiệu chống Mỹ xâm lược tuyên truyền
để buôn xương bán máu của dân. Và gán cho người anh em đủ mọi thứ xấu
xa như ngụỵ quân, ngụy quyền, tay sai, thử hỏi ai là tay sai? ai bán
nước?
Đảng
Cộng sản Việt nam đánh đĩ hai chữ kháng chiến quí giá. Tôi lột mác
kháng chiến của các anh vì các anh cứ khoe khoang mãi về công lao kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, mà quên rằng, các anh chỉ là tên lính xung
kích của bọn đế quốc đỏ lúc đó là Nga sô và Trung Cọng. Vả lại các anh
có bao nhiêu đảng viên cộng sản trong thời gian kháng chiến chống Pháp?
Và bao nhiêu đảng viên hy sinh ở Điện Biên Phủ? Hay các anh chỉ là
những kẻ chiến đấu bằng xương máu của người khác để thực hiện mưu đồ
đen tối. Lại hỏi nữa: 30 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc, các
anh có cái gì ngoài cái lăng lỗi thời và mất vệ sinh nhất. Còn 30 năm
hòa bình các anh đã làm được những gì cho đất nước ngoài một số công
trình được dựng lên từ tài lực của bọn tư bản cá mập. Trong đó đáng kể
nhất là tiền và công sức của người Việt Nam lưu vong. Dân tộc ta có
cuộc sống an bình no đủ, đất nước tồn tại và đứng vững, phát triển mà
không cần sự có mặt của đảng cộng sản Việt nam. Ðảng cộng sản Việt Nam
luôn luôn là tai ương cho đất nước này, một tai ương mà tất cả chúng ta
đã có dịp kiểm chứng đầy đủ.
Tôi
tin chắc rằng chế độ cộng sản hiện nay là một tội lỗi về đạo đức, về
chính trị vô cùng to lớn. Các anh sẽ là người hạnh phúc, nếu anh được
từ giã nó. Trên thế giới này, không có lý do nào có thể giải thích tại
sao người Việt Nam không có cả quyền tự nhiên, tự do căn bản, mà bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã đưa ra như quyền được sống, được tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc riêng của họ.
Việc
nhắc lại quá khứ chỉ có thể là bài học cho hiện tại và hậu thế. Các anh
đều biết đấy, từ năm 1945, những mơ ước cháy bỏng nhất cho nhân dân
không trở thành hiện thực. Tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 năm 1945
cảm thấy bi phản bội nữa là khi hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa bị
chính người đọc tuyên ngôn độc lập dâng cho giặc Tàu năm 1958 và việc
dâng đất, cắt đất cho giặc sẽ không dừng lại chừng nào chưa xảy ra … và
chưa kết thúc…. Nguyên nhân cuối cùng và đại họa đến với dân tộc dường
như đã và đang ngầm núp trong nền chính trị của đảng Cộng sản. Một đảng
có lịch sử lừa đảo để chiếm quyền, với lòng kiêu hãnh ngu dốt bỉ ổi, lì
lượm vô sỉ và tham tàn, mà ngừời sáng lập ra nó đã có công lưu manh hoá
toàn đảng, về cuối nó tập họp những tâm hồn khiếp nhược và những bộ óc
tê liệt trước sức ép của ngoại bang. Tại sao lại nói đại hoạ ngầm núp
trong đảng cộng sản Việt Nam, vì rằng: trong việc giải quyết mối quan
hệ với Trung Cộng, họ đã đi quá xa, với những lo lắng xấu nhất cho đất
nước. Bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Phạm Văn Trà… tỏ rõ sự nhu
nhược quá đáng với những đòi hỏi của Bắc Kinh, những nhượng bộ liều
lĩnh, vô vọng và vô trách nhiệm đối với Tổ quốc, coi thường nhân dân.
Trong
việc hoạch định chính sách đối ngoại, những người lãnh đạo đảng bị ràng
buộc bởi những nỗi lo trước kia không dám quan hệ chặc chẽ với phương
Tây. Nhưng lại liên kết chặt chẽ với kẻ thù truyền kiếp là Trung Quốc.
Sự thực Việt Nam chưa bao giờ có sự an toàn đáng tin cậy của người Tàu.
Vấn đề quan trọng ở đây là lịch sử xâm chiếm Việt Nam của người Tàu để
lại… Và tâm lý dân Việt hàng ngàn thế hệ được giáo dục với tinh thần
rằng kẻ thù chính của họ là bọn bành trướng Phương Bắc, rằng chúng luôn
luôn muốn chiếm cả Việt Nam từ khi mới lập quốc. Nhưng đảng cộng sản
Việt Nam đã thay đổi hẳn chính sách của họ, từ khi Hồ Chí Minh lên nắm
chính quyền. Họ Hồ thường giáo dục đảng viên “Mối tình thắm thiết Việt
Hoa, vừa là đồng chí, vừa là anh em và Trung quốc với Việt Nam như chân
với tay, như môi với răng”.
Điều đó, có nghĩa là họ Hồ không biết, và không hiểu lịch sử nước mình. Cũng có thể là ông không muốn biết và không muốn hiểu.
Có
thể tinh thần thời đại và đổi thay, nhưng việc lấn chiếm đất đai của
Việt Nam thì các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không muốn thay đổi. Đó cũng là
nét đặc trưng của người Tàu là như vậy. Họ luôn luôn muốn mở rộng lãnh
thổ Trung Hoa, gây ra nguy hại, và mất an bình của các nước láng giềng,
như Ấn Độ, Việt Nam, Mông Cổ, Tây Tạng v.v. Làm thế nào nữa đây để
chúng ta có thể sống yên bình, hoà hợp và thân ái với họ. Khi họ luôn
luôn dòm ngó, xâm lấn lãnh thổ nước ta.
Kinh
nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy rằng, Việt Nam càng ít quan hệ chính
trị với Trung Hoa bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Quan hệ với họ thì dễ,
nhưng rứt ra khỏi tay họ thì rất khó! Huống hồ là những người lãnh đạo
đảng Cộng sản Việt nam lại xác định phương châm “hợp tác toàn diện” với
người Tàu “Nhất thể hoá khu vực” theo phương châm của Tàu. Lãnh đạo
Việt cộng luôn nêu khẩu hiệu học tập nước bạn.
Tại
sao ta cứ phải làm theo họ, cái tệ nô lệ này có từ năm 1946, khi đảng
Cộng sản Việt Nam, lấy “tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam cho
hành động”. Phải dứt bỏ hẳn cái vòng kim cô của Bắc Triều. Phải dứt bỏ
điều ô nhục đáng hổ thẹn này. Nó trái với nguyên tắc đạo đức và chủ
nghĩa yêu nước.
Chúng
ta đồng thời được tiền nhân kính yêu cảnh cáo về tai họa của việc liên
minh với Bắc triều. Nếu cần chiến đấu chúng ta không sợ vài triệu quân
Tàu. Chúng là một lũ hết sức thâm độc, nhưng cũng là một đội quân hèn
nhát nhất thế giới. Bọn tướng Hán từ cổ đến kim tên nào cũng nhát như
chuột; ông cha ta, chưa bao giờ chiến đấu trong một trận ngang sức: Ngô
Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ.
Tiền nhân ta đã chiến thắng kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Và cũng rộng
lượng với kẻ thù khi chúng bị đánh bại. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn
Trãi từng viết: “Đánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan
tác chim muông.” Hãy ngẩng cao đầu hãnh diện về Tiền nhân của chúng ta.
“Lịch
sử bao giờ cũng có nhiều mặt… Trong Vương triều nhà Trần luôn luôn bị
sức mạnh từ bên ngoài đè nặng không thể tưởng tượng được. Nhưng sự
thống nhất trong nội bộ của nó luôn luôn được chuẩn vị và nhân dân một
lòng, thì cho dù giặc Mông cổ có sức mạnh mẽ, hùng cường đến đâu cũng
chẳng làm gì nổi. Trên thực tế chưa bao giờ có sức mạnh đáng kể bên
ngoài nào ưy hiếp được triều đại nhà Trần. Đây là bài học được rút ra
từ thực tế lịch sử chứ không phải lý thuyết” (Dẫn sách TTPGNT trang 486
tập I cuả tàc giả.)
Sức
mạnh của cộng đồng dân tộc là tổng hợp ở mỗi cá nhân, vì vậy dân tộc có
thể hùng mạnh. Và ngược lại, từ mỗi cá nhân đến với cộng đồng. Chúng ta
thực hiện chưa được chu toàn sức mạnh ấy. Vấn đề chia rẽ giữa người
Việt với nhau quá lâu rồi! Hãy cho qua đi, chúng ta hướng về tương lai.
Chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho
chúng ta cơ hội để hàn gắn vết thương quá khứ, cùng tiến đến một cơ sở
chung. Bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp
nó vào quá khứ. Hãy để cho giây phút nhân ái nầy theo: “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương, người trong một nuớc phải thương nhau cùng”. Là một điều
hàn gắn vết thương và đoàn kết cùng nhau cứu nước. Cho dù chúng ta có
thể nghĩ như thế nào đi nữa về những khuynh hướng chính tri cho Việt
Nam tương lai. Nhưng những người Việt Nam dũng cảm đã dấn thân chiến
đấu cho động cơ cao cả vì tự do độc lập dân tộc sẽ không có gì ngăn
cách. Tôi tin chân lý là chất keo gắn bó chúng ta với nhau. Đó là sợi
giây ràng buộc cho dù bị kéo căng ra vẫn không bị đứt cả bên trong lẫn
ngoài nước. Chúng ta hãy cùng nhau tạo dựng tinh thần dân tộc trên cơ
sở thống nhất cho một nước Việt Nam Tự do.
Để
thay đổi một chế độ độc tài chúng ta cần phải can đảm và dám làm những
gì mà thế hệ trước chưa làm được. Các vị tướng lãnh trong quân đội,
phải là người tiền phong khai thông để kỷ nguyên bế tắc trôi giạt qua
đi và một mùa xuân đổi mới trên toàn cõi Việt Nam bắt đầu.
Dân
tộc đang cần con người hành động, con người chúng ta cần là con người
trung thành với nước Việt Nam, con người đặt Tổ quốc và quyền lợi nhân
dân lên hàng đầu. Người đó, nhất định sẽ thống nhất được lòng dân và
tập họp được các lực lượng yêu nước tạo được sức mạnh. Người đó sẽ đưa
dân tộc tới một kỷ nguyên hoà bình tự do và công lý.
Một niềm tin mà tất cả đồng bào trong và ngoài nước đều có quyền hy vọng!
Trân trọng.
Trần Nhu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét