Bốn Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
XÉT RẰNG:
1. Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.
2. Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ để bán nước Biển Đông cho Trung Quốc.
3. Cũng trong năm 2000 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.
4. Năm
1958, bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đồng ý
chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Những
hành vi này cấu thành 4 tội phản bội tổ quốc bằng cách “cấu kết với
nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ
những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước”.
I. TỘI NHƯỢNG ĐẤT BIÊN GIỚI CHO NƯỚC NGOÀI.
Năm
1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc
Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Qua năm
sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và đại pháoTrung
Quốc, Bắc Hàn kéo quân xâm lăng Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất
ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân
lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc.
Từ
1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hòa đàm. Hai năm sau Chiến
Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng
7, 1953. Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung
hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt.
Để
tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn
luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào
nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp
viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu
số Trung Quốc kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn
chiếm đất đai.
Trong
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai khởi sự từ 1956, với các chiến dịch Tổng
Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972),
Bắc Việt huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền
Nam. Thời gian này để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của
quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều
Tiên), Bắc Việt nhờ 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam
đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong dịp này các binh sĩ,
dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc
về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai.
Trong
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba khởi sự từ 1979, để giành giật ngôi vị bá
quyền, Trung Quốc đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Và khi
rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để
lấn chiếm đất đai. Ngày nay, dưới áp lực của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp
thức hóa tình trạng đã rồi, nói là thể theo lời yêu cầu của các sắc dân
thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam.
Năm
1999 họ đã ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Quốc
khoảng 800 km2 dọc theo lằn biên giới, trong đó có các quặng mỏ và các
địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn và Thác Bản Giốc
tại Cao Bằng.
II. TỘI BÁN NƯỚC BIỂN ĐÔNG CHO NƯỚC NGOÀI.
Kinh
nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh
thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới
hay tranh chấp hải phận.
Trong
cuốn “Biên Thùy Việt Nam“(Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre
Bernard Lafont có viết bài “Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam” (La
Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và
Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt
theo đường kinh tuyến 108 Đông, chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa
Vịnh (Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và
Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo
Hiệp Ước Bắc Kinh, nên “từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào
khác.” Do những yếu tố địa lý đặc thù về mật độ dân số, số hải đảo, và
chiều dài bờ biểnViệt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% hải phận.
Năm
2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải
phận, bỗng dưng vô cớ, phe Cộng Sản đã ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy
bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887.
Hiệp
Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm
đạo lý. Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu
chuẩn của Tòa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào
các yếu tố địa lý, như số các hải đảo, mật độ dân số và chiều dài bờ
biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ
biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam.
Ngoài ra Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo trong khi Hải Nam chỉ có 5 hay 6
hòn. Tại miền bờ biển hễ đã có đất thì phải có nước; có nhiều đất hơn
thì được nhiều nước hơn; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì
vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo
Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc
Việt.
Ngày
nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với
tỷ lệ lý thuyết 53% cho Việt Nam. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10%
hải phận, khoảng 12.000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã
không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu
chuẩn phân định Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45% hải phận so
với 55% của Trung Quốc. Và Việt Nam đã mất 21.000 km2.
Bất
công hơn nữa là vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân
định Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa), biển rộng
chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý để
đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật
Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được
thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương. Theo án lệ của
Tòa Án Quốc Tế, hải đảo không thể đồng hóa hay được coi trọng như lục
địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ
nhất của Trung Quốc, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác
dầu khí. Trong khi đó 42 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây rõ
rệt là bất công quá đáng. Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân
Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá
và thềm lục địa để khai thác dầu khí.
Hơn
nữa, Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu
và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính
và không lấn chiếm.
III. TỘI DÂNG CÁC TÀI NGUYÊN VÀ NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN CHO NƯỚC NGOÀI.
Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá.
Ngày
15-6-2004, Quốc Hội phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, trái với
Điều 84 Hiến Pháp, Hiệp Ước Đánh Cá không được Quồc Hội phê chuẩn, chỉ
được Chính Phủ “phê duyệt”.
Theo
Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60
hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi
sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến
17 (Quảng Bình, Quảng Trị). Tại Quảng Bình biển rộng chừng 120 hải lý,
theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng
đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam
được 290 hải lý để đánh cá.
Tại
Ninh Bình, Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung
tuyến, Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung,
ngư dân chỉ còn 55 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 315 hải lý.
Hơn
nữa, theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tầu, số chuyên
viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân
ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng
hải phận Trung Hoa.
Ngày
nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp phát triển nhất thế giới. Trên
mặt đại dương, trong số 10 tầu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100
tấn, ít nhất có 4 tầu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy trong cuộc hợp
tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá
mập, cá kình:
a)
Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tầu đánh cá
lớn trọng tải trên 100 tấn, một mình Trung Quốc chiếm hơn 40 % số tầu,
so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam
không có mặt trong số 17 quốc gia này).
b)
Các tầu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động
60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra
khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát
bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại
khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên
hải Việt Nam sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ
triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể
cả bằng sự cấu kết với ngoại bang vi phạm luật pháp và hiệp ước.
Trong
cuộc hùn hiệp hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Nam chỉ
là kẻ đánh ké, môi giới mại bản, giúp cho Trung Quốc mặc sức vơ vét tôm
cá hải sản Biển Đông, để xin hoa hồng (giỏi lắm là 10%, vì Trung Quốc
có 100% tầu, 100% lưới và 95% công nhân viên).
c)
Rồi đây Trung Quốc sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng
như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước
này các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh
cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành
hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đã trắng trợn
và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách “tận
thâu, vét sạch và cạn tầu ráo máng” áp dụng từ thời Đặng Tiểu Bình. Đó
là chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm
giàu với bất cứ giá nào.
Từ
hơn 1/4 thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển công kỹ nghệ,
thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải
Trung Hoa, các tài nguyên, hải sản và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá,
dầu khí đã cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn
nhân mãn (của 1 tỷ 380 triệu người) đòi hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu
vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Miền Nam.
d)
Với hơn 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đã huấn luyện được
một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia, chuyên viên
điện tử, và ngư dân có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có
một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp
dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tầu v...v... Và rồi đây, bên
cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á , chúng ta sẽ có thêm
một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tầu đánh cá xuyên dương
Trung Quốc.
IV. TỘI CHUYỂN NHƯỢNG CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA TRƯỜNG SA CHO NƯỚC NGOÀI.
Với
đà này Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ nhượng nốt các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã nhiều lần công bố ý định này:
1)
Ngày 15-6-1956, ngoại trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố: “Hà Nội
nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung
Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.
2)
Ngày 14-9-1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ
Tịch Nước, xác nhận chủ quyền hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
3)
Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, sau khi
Trung Cộng tiến chiếm Trường Sa hồi tháng 3-1988, báo Nhân Dân, cơ quan
chính thức của Đảng Cộng Sản trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: “Trong
cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn
bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên”.
Đây chỉ là lời ngụy biện. Vì tại Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có Đệ Thất Hạm
Đội nên không cần đến các hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa để làm căn cứ
xuất phát hay địa điểm chỉ huy.
4)
Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luậân việc
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực đầu năm 1974, đã viết: “Trung
Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là
người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày
hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc
cũng vậy thôi”.
Từ
1956, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “giải phóng
Miền Nam” bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng
Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự cưu mang nhiệt tình của người
thầy phương Bắc. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Lien Xô chủ
trương chung sống hòa bình với Tây Phương, trong khi Mao Trạch Đông vẫn
tuyên bố “sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách Đế
Quốc Tư Bản”.
Mà
muốn được cưu mang phải cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14-9-1958, qua
Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển
nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua năm 1959,
Đảng Cộng Sản phát động chiến tranh Giải Phóng Miền Nam.
Có 3 lý do được viện dẫn trong cam kết này:
a)
Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Cà
Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng
Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu!
(không phải tài sản của mình). b) Sau này do những tình cờ lịch sử, nếu
Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông
đâu có ăn nhằm gì so với toàn thểổ Việt Nam? c) Giả sử cuộc “giải phóng
Miền Nam” không thành, thì việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa
thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc
gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng. lãnh th
KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG CỘNG.
Năm
1982, với tư cách ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết,
Trung Cộng hoan hỷ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong Công Ước, Bắc Kinh
mới thấy lo! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý,
vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai
thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 270
hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lý, nên không thuộc hải phận
(thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc.
Vì
vậy, cuối năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm
nghiên cứu thảo luận ròng rã trong suốt 10 năm, để kết luận rằng “Nam
Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ”.
Đây
là thái độ trịch thượng võ đoán của phe đế quốc, cũng như Đế Quốc La Mã
thời xưa coi Địa Trung Hải là “biển lịch sử của chúng tôi!”
Biển
Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển, cách Quảng Ngãi 40
hải lý, cách Nam Dương 30 hải lý, cách Mã Lai và Phi Luật Tân 25 hải
lý. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3
túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna
của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân.
Tuy
nhiên về mặt pháp lý, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn
Độ, thì Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam.
Vả
lại theo Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa
Thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc cũng bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển bác bỏ trong Điều 8: “Biển lịch sử hay nội hải của một quốc
gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn
bản” (đường căn bản là lằn mực thủy triều xuống thấp).
Do
đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc
vì nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số.
Và
công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công “dã
tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”!
Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Cộng đề ra kế hoạch 4 bước để xâm chiếm Biển Đông về kinh tế:
1)
Ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ năm 2000 để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887
(theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37%. Nếu theo đường trung
tuyến, hai bên được chia đều 50%. Tuy nhiên trên thực tế, Trung Cộng
không theo đường trung tuyến và đã đề ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định
theo đó Việt Nam chỉ còn 45% so với 55% của Trung Hoa.
2)
Ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá năm 2000 để thiết lập Vùng Đánh Cá
Chung 60 hải lý. Và Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17, và 32% tại vĩ
tuyến 20. Với các tầu đánh cá viễn duyên, với các lưới cá dài 50 hải
lý, và nhất là với sự cấu kết đồng lõa của đội tuần cảnh duyên hải Việt
Nam, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu đánh cá tự do cho đội
kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.
3)
Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong
Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được
phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do
các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển.
Các chất hữu cơ này được nước phù sa Sông Hồng Hà từ Vân Nam và Sông
Cửu Long, con sông dài nhất Đông Nam Á, từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra
Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu
cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại
Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đã đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu
khí, như “Dự Án Quỳnh Hải” bên bờ đảo Hải Nam và “Dự Án Vịnh Bắc Bộ”
phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng “Vịnh Bắc Bộ”, Trung Quốc mặc
nhiên nhìn nhận rằng đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là
củaTrung Hoa thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).
4)
Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch đánh cá và
khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác
đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam
Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc thềm lục địa và khu
đặc quyền kinh tế đánh cá 200 hải lý của Việt Nam nên thuộc chủ quyền
tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay chồng lấn hải
phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt.
Không
ai ngu dại gì cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí
chung tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế riêng của nước mình.
Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của
quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu,
nhất là chiếm cứ võ trang (trường hợp Trung Cộng dùng võ trang chiếm
Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988).
Bằng
kế hoạch thôn tính 4 bước, đế quốc Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn
thể hải phận Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa
theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất
lực, vô quyền, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự
thú của đương sự).
Như
vậy, Thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc từng bị Công Ước về
Luật Biển và Tòa Án Quốc Tế bác bỏ, nay sẽ trở thành hiện thực do kế
hoạch 4 bước thôn tính Biển Đông của Trung Cộng. Vì quyền lợi riêng tư,
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng
cá dâng dầu và dâng các hải đảo cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Hành động như vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã 4 lần phản bội Tổ Quốc.
Vì những lý do nêu trên:
Thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói.
Trước
Tòa Án Quốc Dân và Tòa Án Lịch Sử ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN KẾT
ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ 4 TỘI PHẢN BỘI TỔ QUỐC.
San Jose, California.
ỦY BAN LUẬT GIA BẢO VỆ DÂN QUYỀN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét