Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

18 tháng 11 2009

Phải Chăng Biển Ðông Lại Nổi Sóng?

Lời giới thiệu: Nhân dịp nhà cầm quyền Trung cộng cho thành lập Khu Hành Chánh để quản lý khu vực các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Biển Ðông, hiện là một vùng tranh chấp của nhiều nước tại Ðông Nam Á, đương quyền Hà Nội vì thế đã ngấm ngầm xúi giục sinh viên & học sinh tại các thành phố Hà Nội và Sài Gòn biểu tình chống lại thái độ ngang ngược của Bắc Kinh. Trong lúc chờ đợi để rõ biết thêm về nguyên nhân, động cơ và những bàn tay đứng sau các cuộc biểu tình chống Trung cộng ngày Chủ nhật 9-12-07 vừa qua, chúng tôi xin giới thiệu tới bạn đọc bài viết về quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa của tác giả Phùng ngọc Sa được đăng tải dưới đây.
*****
Theo tin đài BBC phát thanh ngày 20-7-07 đưa tin cho biết, vào ngày 9 tháng 7 năm 2007, Lực Lượng Hải quân Trung cộng (TC) đã bắn xối xả vào thuyền đánh cá Việt Nam khiến một ngư phủ bị giết, nhiều người khác bị thương và một thuyền đánh cá bị đánh chìm. Ðài BBC còn ghi nhận, sự kiện nầy xảy ra chỉ 300 km cách bờ biển Việt Nam và lúc đó có sự hiện diện của Hải quân CSVN, nhưng phía Việt Nam vì thấy hỏa lực của TC quá mạnh nên không dám can thiệp giúp dân đánh cá người Việt thoát nạn. Ngoài ra, BBC còn cho biết, đây là lần thứ 2 tiếp liền trong 3 tháng của năm 2007, Hải quân Trung cộng đã bắn phá và càn quét, đuổi các tàu thuyền Việt Nam trong khu vực mà Bắc Kinh nói thuộc chủ quyền của họ, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội đã giấu dẹm sự kiện không dám lên tiếng, hoặc công khai tố cáo thái độ côn đồ của TC trước dư luận quốc tế.
Bất bình trước thái độ hung hãn của TC, giáo sư Carl Thayler, chuyên viên thuộc Quốc phòng Úc nói: CSVN không chịu công khai lên tiếng nói rõ việc TC giết ngư dân Việt Nam là một cách hành xử không hợp lý. Riêng về phía TC ông nói, thực ra nhà cầm quyền Bắc Kinh chỉ cần bắt giữ những người đánh cá Việt Nam xâm phạm hải phận của họ trái phép (?) là đủ. Sau đó sẽ đem xét xử cần gì phải gây cảnh đổ máu.
Phải chăng hành động thô bạo của Bắc Kinh vừa qua là một dấu hiệu dùng để cảnh cáo và cấm chỉ Việt Nam, là “tuyệt đối” không được bén mảng đến quần đảo Nam Sa, tức là quần đào Trường Sa của Việt Nam mà TC nhận bừa là của họ. Và cũng vì ảnh hưởng do những hành động hung bạo đó của Trung-Nam-Hải khiến:
- Hãng BP (British Petrolium) của Anh quốc đã ngưng tiến hành việc thăm dò dầu khí tại vùng phía Nam đảo Côn Sơn và chuyển qua một phương án khác vì lý doTC hăm dọa.
- Trong ngày 14-06-07, ông David Nicolas đại diện hàng British Petrolium đã thông báo, BP sẽ huỷ bỏ dự án khai thác “Lô 52”, tức là lô dầu khí thuộc phía Nam quần đảo Trường Sa, phía ngoài khơi Bạc Liêu vì áp lực của Bắc Kinh.
Hành động ngang ngược của Trung Hoa xung quanh việc tranh dành chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa TC-VN không phải lần đầu xảy ra mà đã từng âm ỷ từ lâu; cụ thể là trước đây vào cuối tháng 3 năm 2004, công ty du lịch Hà Nội, Việt Nam đã rầm rộ quảng cáo về một chuyến du lịch đến quần đào Trường Sa vào trung tuần tháng 4-2004, dành cho 100 du khách thăm viếng các hải đảo trong quần đảo Trường Sa nơi có “Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam” trấn đóng thì TC đã tỏ thái độ giận dữ, tố cáo Việt Nam đã vi phạm các điều khoản mà 10 nước trong khu vực đã đồng thuận với nhau.
Cùng thời gian đó, hãng Reuter từ Bắc Kinh đánh điện đi cho biết, cộng sản Trung Hoa chính thức tuyên bố chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ở Biển Ðông mà người Tàu gọi là Tây Sa và Nam Sa và hách dịch xác định: “đó là một điều chắc chắn không cần phải bàn cãi nữa”. Ngoài ra, TC còn ngang ngược đơn phương ra lệnh cấm các tàu thuyền đánh cá của các nước Ðông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam không được bén mảng quanh khu vực các quần đảo nói trên để đánh cá.
Trước thái độ trịch thượng và ngang ngược nầy của các “chú con trời” ở Trung-Nam-Hải, nhà cầm quyền Hà Nội đành phải bóp bụng cay đắng là hoảng: “Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh chủ quyền về lãnh thổ của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa mà Trung Quốc đã nhận bừa là của họ.” Hà Nội còn cho biết: “Bất cứ mọi hành động liên quan đến hai quần đảo nói trên mà chưa có sự đồng ý của Việt Nam là một vi phạm đến chủ quyền của Việt Nam trong khu vực.”
Không phải đây là lần đầu tiên TC mới áp dụng chủ nghĩa Chauvin nước lớn để chèn ép Việt Nam. Trước đó vào tháng 6 năm 1994, họ đã chuẩn bị dư luận bằng cách phái một số cán bộ được gọi là học giả đến Ðài Loan họp với một số học giả nơi đây để cùng nhau đưa ra lời tuyên bố xác nhận: Trung Quốc có chủ quyền lịch sử trên các vùng tranh chấp ở Tây Sa & Nam Sa (tức là Hoàng Sa & Trường Sa).
Lời công bố trên, quả thật là một âm mưu bất chánh của cái được gọi là giới trí thức của cả hai phía cộng sản cũng như quốc gia Trung Hoa. Ðây là một hành động chứa đầy âm mưu quỷ kế nặng trĩu đầu óc bá quyền và tư tưởng Ðại Hán của kẻ thù phương Bắc. Việc làm của họ mỗi ngày một thể hiện rõ mục đích là gây ngộ nhận ở hiện tại và tương lai đối với chủ quyền thực sự của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa mà TC gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Phản ứng của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội lúc bấy giờ mới nghe xem có vẻ quyết liệt, song thực chất bên trong tràn đầy âu lo và sợ hãi trước thái độ lấn lướt càng ngày càng thô bạo của TC. Ngoài ra, CSVN lại còn bị thế mở miệng mắc quai. Trước đây do sự phản bội quốc gia dân tộc và để lấy lòng quan thầy TC, Hà Nội đã tán tận lương tâm công khai xác nhận chủ quyền và lãnh thổ hai quần đảo nói trên là của TC. Bằng chứng, trong một công hàm ngoại giao đề ngày 14 tháng 9 năm 1958 gởi cho Tổng Lý Quốc Vụ Viện TC Chu An Lai được đăng trong báo Nhân Dân số 1653 ra ngày 22 tháng 9 năm 1958, Phạm Văn Ðồng Thủ Tướng của cái được gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã công khai nhìn nhận bản công bố của TC ngày 4 tháng 9 năm 1958 xác định: “Lãnh thổ và lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa rộng 12 hải lý bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa mà trên bản đồ thế giới của Trung Hoa được ghi là Tây Sa và Nam Sa.”
(Ghi chú: từ thế kỷ 15 đến thời Pháp thuộc, tiền nhân Việt Nam vẫn gọi các hải đảo ngoài khơi là Bãi Cát Vàng Hoàng Sa và Bãi Cát Dài hay Trường Sa).
Ðể chứng minh và cụ thể lòng trung thành của mình đối với quan thầy TC, CSVN đã có một hành động vô liêm sĩ: trong thời gian TC gây hấn cưởng chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng 2 trận hải chiến với Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 19 và 20 tháng giêng năm 1974, cộng sản Hà Nội đã không có một thái độ hay một lời phản đối nào về hành động xâm lăng nầy của TC. Trái lại, họ còn thản nhiên và hoan hỷ đón tiếp phái đoàn bóng bàn TC đến viếng thăm Hà Nội một cách long trọng. Trước sự mất mát quá lớn lao nầy, giáo sư Hoàng Xuân Hản trong bài viết “Ðúng ba trăm năm về trước” ông nói: “Hoàng Sa bị cưởng chiếm là triệu chứng cụ thể của những sự thiệt hại gây nên bởi những sự bất hòa giữa nhân dân ta. Hoàng Sa là đất của Việt Nam, là đất của một Việt Nam thống nhất. Khi đất nước còn tạm chia đôi thì khó lòng điều đình để Hoàng Sa trở lại với đất nước. Tuy rằng nhiều chứng cớ xưa nay, trong cũng như ngoài đều xác định các quần đảo đó thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Vậy những chứng tích lịch sử mà giáo sư Hoàng Xuân Hản muốn nói, và các bằng chứng pháp lý mà Hà Nội dự định đưa ra là những điều gì?
Những điều nêu trên, nếu không muốn nói đó chính là điều mà những người CSVN trước đây vì không muốn làm mất lòng quan thầy nên đã cam tâm từ chối chủ quyền của mình. Song, sau khi đã thống nhất được hai miền Bắc Nam, họ thấy quá đắc tội với tiền nhân và thấy hổ thẹn với đồng bào; hơn nữa họ đã một phần nào mở mắt thấy rõ được vị trí chiến lược vô cùng quan trọng cùng với tài nguyên vô cùng phong phú tại các vùng lãnh hải nói trên, nên buộc chúng phải sử dụng luận cứ vững chắc, các tài liệu và bằng chứng mà chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước kia để đòi lại chủ quyền của hai quần đảo. Dưới đây là những tài liệu và các chứng tích lịch sử mà trước đây Việt Nam Cộng Hòa đã sử dụng:
Quần đảo Hoàng Sa - Dựa theo Hồng Ðức Bản Ðồ dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1460-1479), ông Ðỗ Bá tự Ðào Phủ đã biên soạn trong sách Toàn Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Ðồ được phổ biến vào năm 1630, mô tả về “một bãi cát vàng” dài ước chừng 400 dặm, ngang 20 dặm, chạy dài từ cửa Ðại Chiêm đến cửa Sa Vinh (Sa Huỳnh?) thuộc tỉnh Quảng Ngãi và cách bờ biển khoảng 135 hải lý. Bãi cát vàng đây được xác định là quần đảo Hoàng Sa. Ngoài những ghi nhận trên, trong quyển Hoàng Việt Ðịa Dư Chí của ông Phan Huy Chú, quyển 6 của bộ Ðại Nam Nhất Thống Chí, quyển Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, Ðại Nam Hội Ðiều Sự Lệ của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn, Phủ Biên Tạp Lục của ông Lê Quý Ðôn, tất cả tài liệu nầy có ghi đấy đủ tất cả dữ kiện liên quan đến Hoàng Sa.
Dưới triều đại các vua nhà Gia Long, Minh Mạng triều đình ta đều cử các quan trông coi, đo đạt cũng như đã dựng miếu trên đảo. Dưới thời Pháp thuộc đã có nhiều cơ quan hành chánh cũng như khí tượng được thành lập. Nha Thương Chánh đã được thành lập từ năm 1920 (Service des Douanes) thường tổ chức những cuộc tuần thám xung quanh đảo để đề phòng nạn buôn lậu. Năm 1925, Hải Học Viện Nha Trang cũng đã cử một nhóm bác học và chuyên viên ra đảo để nghiên cứu. Người Pháp đã có nhiều công trình khí tượng trên đảo, đến năm 1932 thì Pháp đã thiết lập cơ sở Ðại Lý Hành Chánh (Délégátion Administratives des Paracels). Do Dụ số l0 ngày 20 tháng 3 năm 1933, Bảo Ðại năm thứ 13, quần đảo được đặt trực thuộc tỉnh Thừa Thiên. Một đơn vị QLVNCH cũng được chỉ định thường trú cho đến khi bị TC cưởng chiếm năm 1973.
Không những chỉ có chứng tích lịch sử trong nước, mà ngay cả các tài liệu và chứng minh của ngoại quốc cũng đã xác nhận là Hoàng Sa thuộc Việt Nam. Tài liệu hàng hải của Hòa lan đã ghi rõ, dưới thời chú Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) một đoàn tàu của Hòa Lan gồm có 3 chiếc là Veehulzen, Schagen, và Grootebroek (Journal de Batavia ấn hành năm 1631-1634-1636) của công ty Ðông Aán thuộc Hòa Lan đã hải hành từ Batavia đến Tourane (Ðà Nẳng hiện nay) rồi nhổ neo tiến về hướng đảo Formosa (Ðài Loan). Trên hải trình vào ngày 21-7-1634 thì gặp bảo. Hai chiếc kia chạy thoát được đến Formosa. Riêng chiếc Brootebroek lại bị bão đánh chìm gần đảo Paracels (Hoàng Sa) ngay tại Vỉ tuyến thứ 17 Việt Nam. Thuyền trưởng Huijch Jansen và một số thủy thủ phải dùng thuyền nhỏ đến duyên hải thuộc xừ Ðàng Trong của Chúa Nguyễn với hy vọng mua được thuyền lớn để cứu vớt những thủy thủ còn bị kẹt trên đảo Hoàng Sa. Họ có mang theo 5 thùng bạc và 3570 réaux chứa đựng trong l7 hòm. Nhưng chẳng may khi đến đất liền, họ không những không được giúp đở như mong muốn, trái lại còn bị viên chức đặc trách hải môn tịch thu tất cả tiền bạc mà bọn họ mang theo. Sau khi bình an trở về Batavia, thuyền trưởng Huijch của chiếc Brootehoek đã báo cáo tự sự tất cả tự sự với chính quyền của ông. Hai năm sau, vào ngày 16 tháng 3 nam 1936, thương gia Hòa Lan tên Abraham Dutjeker tìm đến Faifoo tức là Hội An ngày nay, rồi từ đó ra Thuận An Huế xin yết kiến Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (lên nối ngôi cha là Nguyễn Phúc Nguyên) để xin giao thương, đặt thương đếm, đồng thời xin Chúa Nguyễn trả lại số tiền mà trước đây đã bị trịch thu. Chúa Thượng đã tiếp kiến Dutjeker rất trọng hậu, nhưng cho rằng sự việc đã xảy ra từ đời vua cha, hơn nữa viên chức hành chánh xử vụ tịch thu về sau bị mang tội tham nhũng 34.000 lượng bạc nên đã bị xử trảm nên chẳng còn chứng tích. Ðể đền bù thiệt hại của người Hòa Lan, Chúa đã chấp thuận cho giao thương buôn báo và chính Abraham Dutjeker về sau làm trưởng điếm.
Về tài liệu của người Pháp lại còn đầy đủ chi tiết hơn. Trong quyền Mémoire sur la Cochinchine của Jean Baptist Chaigneau (1769-1852) và trong quyển Univers, Histoire et Description de tous les peuples, xuất bảo vào năm 1833 ở đoạn nói về đảo Paracels mà người Việt gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm nhiều đảo san hô chằng chịt thuộc xứ Ðàng Trong cai quản. Hoàng Ðế Gia Long đã thân chinh vượt biển tiếp thu quần đảo vào năm 1816, chính ngài đã long trọng thượng cờ tại đó.
Quần đảo Trường Sa - Trường Sa mà TC gọi là Nam Sa (Namsha). Họ chỉ mập mờ nói đến một số đảo (33 hòn đảo nhỏ?) nằm cách xa Hoàng Sa khoảng 631km về phía Nam và cách bờ biển Phước Tuy-BàRịa 500 kilomét. Những đảo này do san hô tạo thành và có vị thế chiến lược vô cùng quan trọng trên đường hải hành từ Trung Hoa đến Nam Dương và bán Ðảo Mã Lai. Trong quyển Thiên Nam Tứ Chí Lộ Ðồ cũng đã ghi rõ dưới thời Chúa Nguyễn, có đội chuyên đi thám sát và thu nhặt hải sản như ba ba, đồi mồi; hải sâm, dồn ngư (cá heo) trong quần đảo Trường Sa cho chính quyền chúa Nguyễn. Những công nhân nầy được miễn đóng thuế thân và các thứ thuế khác.
Năm 1927, tàu DeLanessan của Pháp đã tới khảo sát Hoàng Sa và Trường Sa. Ðến năm 1930, chính quyền Pháp tại Ðông Dương đã chính thức cắm cờ trên đảo và đến năm 1933 Pháp lại phái 3 chiếc tàu mang tên Alert, Astrobal, và De Lanessan đến từng đảo một trong quần đảo Spratley tức là Trường Sa để cắm cờ. Việc thu nhận các đảo Amboya Cay tức An Bang, Spratly (Trường Sa ), Itu Aba(BaBình), Thị Tứ, Loại Ta thì đã có thông cáo chính thức được đăng trên công báo Ðông Dương tức là Journal Officiel de L’Indochine ngày 25 tháng 9 năm 1933 ở trang 7784.
Do Nghị Ðịnh của Phủ toàn Quyền Ðông Dương ký vào ngày 21-7-1933 quần đảo Trường Sa được sát nhập vào tỉnh Bà Rịa (Thời Ðệ I và Ðệ II Cộng Hòa được đổi tên là tỉnh Phước Tuy)
Trước thế chiến thứ II bùng nổ, vào ngày 30-3-1939, chính phủ Nhật Bản đơn phương tuyên bố quần đảo Trường Sa được đặt dưới quyền kiểm soát của Ðế quốc Nhật Bản và được đổi tên la Shinnan Guto. Chính quyền thuộc địa Pháp qua đại sứ Pháp ở Tokyo đã chính thức phản đối hành động của Nhật. Tuy nhiên sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì chủ quyền mà họ xác nhận phải mất. Các chính quyền Việt Nam liên tiếp đã có nhiều quyết định liên quan đến quần đảo Trường Sa.Vào năm 1973, một đơn vị thuộc QLVNCH đã đến trú đóng và kiểm soát trên các đảo Nam Yết (Namyít), Sinh Tồn (Sincow), Loại Ta và Trường Sa (Spratley), Song Tử Tây (Soutwest Cay) và An Bang (Amboya Cay). Chính người viết bài nầy đã có dịp tháp tùng phái đoàn Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đến viếng thăm các đơn vị đồn trú ngoài hải đảo nói trên, và được tận mắt trông thấy những công sự của quân đội Nhật bỏ lại; những hàng dừa và hàng đàn chim biển đông đúc với các bãi trứng ngút ngàn trên các đảo.
Về vấn đề chủ quyền, tục dao La Mã đã có câu: Res nullius, res vilis (của vô chủ, ai thủ đắc trước nhất sẽ được làm chủ. Việt Nam đã nhìn nhận các đảo nầy vào thế kỷ thứ XV). Công Pháp Quốc Tế về lãnh hải ấn định: đảo nào gần quốc gia nào nhất, thì thuộc quyền sở hữu của quốc gia đó (hai quần đảo nầy quá gần Việt Nam. Trường Sa ở phía Ðông Phan Thiết chỉ có 280 hải lý, trong khi đó lại cách Hải Nam của TC đến 580 hải lý và Ðài Loan tới 900 hải lý). Riêng về thềm lục địa, hội nghị quốc tế Stocklom đã định nghĩa một cách rõ rệt như sau: “Thềm lục địa là phần nằm dưới mặt nước biển, nối từ bờ biển của một quốc gia và trải dài cho lúc có độ sâu 200 fathom (mỗi đơn vị fathom = lmét820) Về địa chất học, hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa có thềm lục địa nối liền bờ biển Việt Nam mà không một điểm nào có độ sâu quá mức theo quốc tế công pháp quy định.
Ngoài những chứng tích nói trên, trong hội nghị quốc tế nhóm tại San Francisco năm 1951, toàn thể các nước tham dự đều xác nhận Hoàng Sa&Trường Sa hoàn toàn thuộc về chủ quyền Việt Nam. Trưởng phái đoàn Việt Nam lúc bấy giờ là Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã phát biểu. Ông nói: “Và cũng vì thành thật muốn lợi dụng mọi cơ hội ngõ hầu dập tắt những mầm mống tranh chấp về sau, chúng tôi tuyên bố xác nhận chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Hoàng Sa &Trường Sa, tự lâu đời những nơi đó vốn thuộc lảnh thổ Việt Nam chúng tôi.” Nguyên văn tiếng Pháp: “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde. Nous affirmons nos droits sur les iles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Việt Nam.”
Hội nghị quốc tế Genève để chấm dứt chiến tranh Ðông Dương ngày 21 tháng 7 năm 1954 cũng đã có một tuyên cáo, trong đó nhấn mạnh: Trong việc liên hệ giữa các nước Việt Nam, Lào và Cao Mên, những quốc gia hội viên tham dự hội nghị nầy cam kết tôn trọng chủ quyền, nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước kể trên, và không can thiệp vào nội bộ của các nước đó). (In their relations with Cambodia, Laos, and Việt Nam, each member of the Geneva Conference undertakes to respect the sovereignty, independence, unity and territorial intergraty of the above mentioned States and to refrain from interference in their internal affairs.) Tuyên cáo chung là vậy, thế mà TC không những chính là một thành viên, mà họ còn đóng một vai trò quan trọng lại có tính cách quyết định trong hội nghị quốc tế nầy. Ấy thế mà ngày nay họ lại trắng trợn vi phạm vào một hiệp ước quốc tế mà họ đã ký và cam kết thi hành.
Qua tin tức tổng hợp, mọi người đều rõ việc tranh chấp để dành chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa &Trường Sa từ mấy thập niên qua mỗi ngày một trở nên trầm trọng và quyết liệt, không những bằng lời lẽ ngoại giao, tại bàn hội nghị, mà ngay cả đến việc áp dụng biện pháp quân sự như Phi Luật Tân đã cho Không Lực đánh trả việc chiếm đóng của TC tại phần đảo của Phi vào tháng 3 năm 1995. Trường hợp Việt Nam, một nước ở vị trí tuyến đầu, mức độ tranh chấp lại càng át liệt hơn. Dầu đã có bằng chứng pháp lý rõ ràng là các đảo đó thuộc chủ quyền Việt Nam. Song TC cứ nhận bừa là của họ. Ðã biết bao lần đôi bên trực tiếp đụng độ, và bấy nhiêu lần cả hai đều bị thương vong rất nặng. Tình hình tuy có căng thẳng, song còn giữ thái độ hòa hoãn, vừa đánh lại vừa đàm. Nay, bổng nhiên họ lại giở giọng trịch thượng, nóng giận và nói: “Hai quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa là thuộc lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và đây là một xác quyết không cần phải bàn cãi”.
Câu hỏi được đặt ra. Tại sao trong thời điểm nầy TC mỗi ngày một trở nên hung hãn như thế, trong khi đó thì đương quyền CSVN đôi lúc cũng tỏ ra cứng cựa tỉ như khi tướng Phạm Văn Trà, Bộ Trưởng Quốc Phòng đã phát biểu tại Singapore vào 2/4/04 là Việt Nam sẵn sàng áp dụng biện pháp quân sự để bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ.
Trước các diễn biến phức tạp đó, giới phân tích quốc tế am hiểu nội tình Việt Nam nhận định rằng:
* Bắc Kinh cảm thấy Việt Nam mỗi ngày một ngả về phía Hoa Kỳ và Tây Phương trong chiều hướng muốn tìm cách tách dần khỏi ảnh hưởng của mình tỉ như:
a-) Việc trao đổi sinh viên học sinh Việt Nam với Hoa Kỳ và Tây phương mỗi ngày một tăng, đặc biệt ở các trường huấn luyện quân sự; thậm chí còn có tin đồn quân đội CSVN sẵn sàng tình nguyện làm “lính đánh thuê”cho Mỹ tại Iraq, trước là để “kiếm chút cháo” sau có thêm credit để chóng trở thành hội viên Không Thường Trực của Hội Ðồng Bảo An LHQ.
b-) Các chức quyền Việt Nam tỏ ra lơ là với “Thiên Triều”; trước đây, mội lần công du xuất ngoại đều phục mệnh và báo cáo khứ hồi cho Thiên triều, giờ đây đôi khi còn dám xấc xược quên báo cáo. Trường hợp Nguyễn Minh Triết từ Hoa Kỳ về mà chỉ cho đàn em thông báo là một trọng tội.
c-) Tình hình thăm do dầu khí trong khu vực phía Nam Trường Sa coi có vẻ “lạc quan” khiến Bắc Kinh phải chuẩn bị ra tay là vừa. Tuy nhiên Trung-Nam-Hải đang tính toán lại sự “Lợi & Hại” giữa hành động gây chiến hiện nay và Thế Vận Mùa Hè Năm 2008 sắp tới để quyết định. Vì thế, nên TC phải có hành động ngăn đe trấn áp ra oai, trước là để trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ, đồng thời kiểm soát lại thái độ của các nước trong khu vực Ðông Nam Á, xem ai là kẻ còn khuất phục mình.
* Về phía Ðảng CSVN muốn nhân cơ hội TC công khai hăm dọa để tung quả bóng thăm dò mà truyền thông quốc tế thường gọi là “Calibrate”, còn giới giang hồ lại sử dụng chữ “bấm tẩy” để thử xem mức độ áp lực của Bắc Kinh sẽ mạnh tới mực độ nào khi VC chủ động xáp lại gần Hoa Kỳ, đặc biệt khi Hà Nội cho Hoa Kỳ thuê các tiện nghi dùng để làm cơ sở “bảo quản” các tàu chiến Mỹ cần sữa chữa tại Johnson city.(tên một thành phố sẽ được VC xây cất trên cảng Cam Ranh), mặc khác thử trắc nghiệm xem mức độ cam kết của Hoa Kỳ và Tây Phương đối Việt Nam sẽ như thế nào trong trường hợp Bắc Kinh tỏ ra lấn lướt?
Theo giới quan sát thì Bắc Kinh tăng gia hù dọa cũng chỉ để “rung cây nhát khỉ” chứ chẳng chưa dám làm gì, cụ thể cứ xem họ đã nhiều phen hăm dọa Ðài Loan, từng hung hãn tuyên bố: “Nếu vụ tuyển cử tổng thống tại Ðài Loan còn lộn xộn thì họ sẽ đánh”, nhưng đến nay bầu cử dẵ xong lâu, thử hỏi đã có viên đạn nào rớt xuống quốc gia hải đảo nầy chưa?
Chúng ta thử chờ xem.
Phùng Ngọc Sa.


Không có nhận xét nào: