Bauxite Việt Nam

Vietland

Đài Á Châu Tự Do

18 tháng 11 2009

Ðặt Lại Vấn Ðề Xóa Ðói Giảm Nghèo Tại Việt Nam

Trước khi có một vài nhận định về việc Xóa Ðói Giảm Nghèo Tại Việt Nam, chúng tôi xin sao chép lại nguyên văn những lời phát biểu của một vài viên chức hàng đầu của Ngân Hàng Thế Giới như dưới đây:
Vào ngày 31-10-2007, tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, ông Robert B. Zoellick Chủ tịch Nhóm Ngân hàng Thế giới (NHTG), tức World Bank đã chính thức cho biết: “Việt Nam có đủ điều kiện để tiếp cận nguồn tài chánh của NHTG dành cho các nước có thu nhập trung bình.” Ông Zoellick nói tiếp: “Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận trong thập kỷ vừa qua về vấn đề Giảm Nghèo, và NHTG cam kết sẽ tiếp tục đẩy mạnh mối quan hệ đối tác tốt đẹp với Việt Nam khi đất nước nầy đang tiến trên con đường phát triển bền vững cho mọi người”. Ông Chủ tịch NHTG tiếp tục: ”Việt Nam đã là một khách hàng lớn của IDA, tức International Development Associations mà tiếng Việt gọi là Hiệp Hội Phát Triển Quốc tế, một trong các Tổ chức thuộc NHTG.
Từ năm 1993, nghĩa cách đây khoảng 14 năm, Việt Nam có tỉ lệ nghèo đói là 58%, nhưng qua đến năm 2007 thì tỉ lệ đó đã giảm xuống dưới 20%. GDP, (Gross Domestic Product), tức Tổâng Sản Lượng Nội Ðịa bình quân đầu người đã tăng nhanh, từ dưới 200 USD/người vào năm 1993, giờ đây đến năm 2007 đã lên 825USD/người. Như vậy tỉ lệ thu nhập trong vòng hơn 10 năm qua đã tăng trên 7.3% năm. Cũng vì lý do đó, ông Klaus Rohland, nguyên Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã phát biểu: “Có thể nói rằng không có quốc gia nào trên thế giới, trong vòng 15 năm qua đã phát triển xa và nhanh chóng đến như vậy. Ông nhận xét tiếp,Việt Nam, từ là một nước phải nhập khẩu gạo cho người dân, nay đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn vào thứ nhì trên thế giới.”
Dựa vào những kết quả nói trên, NHTG công bố là sẽ đầu tư 800 triệu US đôla trong vòng 5 năm tới cho Việt Nam dưới dạng các khoản vay và viện trợ không lãi. Dưới mắt của họ, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng và một gương thành công về phát triển.
Trong một trường hợp khác, là ngay lúc vừa mới được bổ nhiệm thay thế Tiến sĩ Wolfowitzts cựu Chủ tịch NHTG, ông Robert B. Zoellick, tân Chủ tịch trong một chuyến thăm Hà Nội 2 ngày khi kết thúc vào 7-8-2007, ông Chủ tịch Zoellick đã đề nghị hỗ trợ toàn diện để Việt Nam tiến đến mức phát triển cao hơn. Ông Zoellick xác định:“ Việt Nam là một trong những nước cải thiện mức sống nhanh nhứt thế giới, với tỉ lệ giảm nghèo nhanh.” Ông nói:” Nhờ vào các chương trình cải cách giai đoạn đầu và việc gia nhập WTO, tức Cơ Quan Thương Mãi Thế Giới, Việt Nam đang trên con đường trở thành một nước có thu nhập trung bình vào đầu năm 2010 (?)
Cũng vào dịp nầy, trong một chuyến thăm viếng đặc biệt một tỉnh miền núi ở phía bắc, được xem là một vùng sâu, nói cách khác là một nơi hẻo lánh. Ông Zoellich được tận mắt chứng kiến các nông dân địa phương đang được hưởng các lợi ích từ các chương trình và dự án do Hiệp Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế hỗ trợ. Cụ thể tại xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái ông lại được xem các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Dự Án Giảm Nghèo do Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế và Bộ Phát Triển Quốc tế Anh quốc đồng tài trợ. Tại khu vực nầy đã có tới 165.000 người dân địa phương được hưởng nhiều lợi ích từ các dự án nói trên, trong đó bao gồm nhiều người thuộc sắc tộc miền cao.
Và, cũng tại đây ông Zoellick đã tận mắt thấy những sáng kiến về “Ðiện Khí Nông Thôn”, kể cả việc ông Chủ tịch được hướng dẫn đi thăm trại biến áp 220v tại tỉnh Yên Bái; được xây dựng trong khuôn khổ “Dự Án Nâng Cao” hệ thống, Cổ phần hóa và Năng lượng tái tạo. Trạm nầy là điểm trung gian quan trọng của đường dây 220kv nối liền giữa Trung quốc và Việt Nam. Trạm nầy thể hiện vai trò rất hữu hiệu trong việc ổn định mạng lưới truyền tải điện trong khu vực, giảm bớt thất thoát điện năng, giúp Việt Nam cải thiện chương trình điện khí hóa nông thôn; theo đó có tới 92% các hộ gia cư trên toàn quốc đã được tiếp cận nguồn điện.
Nói chung, sơ lược qua thông cáo số 2008/43/EAP ngày 31-10-2007 của NHTG, thì việc tóm tắt những lời phát biểu và nhận xét của các quan chức đầu não thuộc NHTG được đánh giá rất tích cực. Khởi đầu từ ông Klaus Rohland, nguyên Chủ tịch NHTG tại Việt Nam thì ông khen là, “không có một quốc gia nào trên thế giới trong vòng 15 qua phát triển một cách nhanh chóng như Việt Nam: từ một nước phải nhập khẩu gạo đã trở thành nước sản xuất gạo đứng thứ nhì thế giới, qua đến ông Jim Adams, Phó Chủ tịch mới của NHTG phụ trách vùng Ðông Á Thái Bình Dương cho biết, việc Xóa Ðói Giảm Nghèo và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là “ngoạn mục”, tỉ lệ nghèo đói đã giảm từ 60% xuống dưới 20%; thu nhập đã tăng lên tới 7.3% trong vòng 10 năm qua.
Kế đến là việc ông Robert B. Zoellick, Chủ tịch NHTG qua cuộc thăm viếng Việt Nam trong mùa Hè năm 2007, khi quan sát hệ thống Ðiện Lực tại Việt Nam, đặc biệt việc “Ðiện Hóa Nông Thôn” và qua một vài Dự án Giảm Nghèo khác đã khẳng định, trong vài năm tới, tức năm 2010 Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình. Và nhằm tiếp tục phát huy những thành công mà Việt Nam đã đạt được, NHTG cương quyết chuẩn bị trợ giúp Việt Nam bằng cả tài chánh lẫn kỷ thuật.
Qua các tài liệu dẫn chứng nêu trên, nếu quý độc giả thấy tất cả nhận xét của các viên chức hàng đầu của NHTG mà đúng như báo cáo chính thức cùng sát với thực tế hiện nay, thì hình ảnh đất nước Việt Nam quả thật là một bức tranh xinh đẹp, phồn vinh và sống động về mọi mặt, từ kinh tế đến tiện nghi công cộng, cụ thể và điển hình là Việt Nam đã thành công trong việc “phong phú hóa” điện khí nông thôn. Hơn nữa, nếu những con số ghi trong bản thống kê không ngụy tạo, không là một sản phẩm tưởng tượng hay là “tiền chế” (frabriqué) thì đây quả là một phép mầu; nhờ đó Việt Nam, một xứ sở thường bị nạn cúp điện sẽ được giải quyết. Nói chung, Việt Nam hiện là một quốc gia có : đủ điện năng; phát triển kinh tế và thực sự đã thành công trong việc Xóa Ðói Giảm Nghèo.
Tuy nhiên, trên thực tế lại không giống như những hình ảnh được vẽ trong các bức minh họa của NHTG. Ðược vậy là nhờ các cơ quan truyền thông độc lập từ nhiều quốc gia khác nhau giúp kiểm chứng. Hơn nữa, còn dựa vào những bản tin chính xác của bà con quyến thuộc trong nước; đặc biệt nhờ bản thân của những người có kinh nghiệm, hiểu biết về mánh khóe, đường lối và chính sách bịp bợm,“nặng phần trình diễn” của bọn cầm quyền cộng sản, vì thế đại đa số đồng bào trong nước cũng như hải ngoại đều có một nhận xét chung và kết luận là, những con số ghi trong các bản phúc trình và thống kê của NHTG là một điều không đúng với thực tế vì lý do dưới đây:
Thứ nhất: Do chính nhân viên của các tổ chức quốc tế vì bị mánh mung, bị lừa gạt bởi bọn cầm quyền mà vô tình hay là cố ý lầm lẫn trong vấn đề ghi chép hồ sơ nên dễ bị qua mặt, vì vậy nên mới có những con số tưởng tượng phóng đại như trong báo cáo của NHTG.
Thứ hai: Do bọn cán bộ cộng sản quỷ quái, chúng đã bố trí một chiến thuật cổ điển là, dùng tiền và gái để mua chuộc các chuyên viên; dựng lên những dữ kiện giả tạo, tiền chế không đúng với thực tế để báo cáo. Cứ việc lấy Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asia Developpment Bank) làm thí dụ cụ thể để chứng minh. Biết rằng, tổ chức nầy đã từng ứng ra hàng trăm triệu đôla để chỉnh trang lại thành phố Sài Gòn, trong đó công tác chủ yếu là nạo vét các cống lạch để thoát nước trong khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn, điển hình là khu vực Minh Xuân, tức là khu từ Ngã Ba Ông Tạ lên Trương Minh Giảng; khu vực nầy bị ô nhiễm quá cao, không thể trồng trọt được hoa màu, và nước uống vì thế đã trở thành độc hại nguy hiểm, Mặt khác, nạn tham nhũng lại quá lộng hành do đó không thể thi công được phải đình hoãn và sau đó ngân hàng Phát Triển Á Châu đành rút lui lại vốn. Ngân hàng Phát Triển Á Châu, một cơ quan tài trợ ở ngay trong khu vực mà còn không thực hiện được thì mong chờ gì được NHTG tiếp tay. Quả là một chuyện quá xa vời.
Thử hỏi, một khi các quan chức hàng đầu của NHTG đã đua nhau “tô son trát phấn” cho chế độ CSVN, vẽ ra những hình ảnh tốt đẹp tỉ như Việt Nam đã phong phú hóa được các nguồn điện năng; kinh tế đã tăng trưởng và vấn nạn nghèo đói đã bị xóa giảm thì chúng ta hãy xét lại. Thử đem các dữ kiện được ghi nhận chính xác sát với thực tế so sánh với những con số trong bảng thống kê ắt quý độc giả sẽ thấy có nhiều sai biệt. Chúng tôi xin từng điểm một trình tới độc giả các tài liệu về những vấn nạn hiện có tại Việt Nam:
I-) Ðiện năng: Theo Tiến sĩ Nguyễn Khắc Nhẫn, Giáo sư trường Ðại Học Bách Khoa Grenoble, Pháp, nguyên là cố vấn chiến lược và kinh tế của công ty điện lực Pháp EDF (Electrique De France) cho biết, việc thiếu điện tại Việt Nam là một vấn nạn trầm trọng. Mặc dầu nhà cầm quyền CSVN nỗ lực tối đa, đã xây dựng thêm nhiều nhà máy nhiệt điện tại các địa phương cũng như lập nhà máy thủy điện tại Sơn La và Hòa bình v.v.. Nhưng so với tốc độ tăng trưởng thì từ đây đến năm 2020, Việt Nam sẽ bị thiếu hằng chục tỉ KWH cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt mỗi năm.
Cụ thể trước mắt chỉ 8 năm nữa thôi, tức năm 2015 thì Việt Nam sẽ thiếu hẳn 9 tỉ KWH và đến cuối năm 2020 thì bị thiếu từ 36 tỉ tới 65 tỉ KWH. Cũng vì lý do đó, nên trong chuyến đi Hoa Kỳ vào tháng 9, Chủ tịch Nhà Nước Nguyễn Minh Triết đã cố thúc đẩy Hoa Kỳ tiến hành gấp việc xây dựng cho Việt Nam 02 lò phản ứng hạt nhân (2 tổ 2 x 1000 MW) tại Ninh Thuận mà người Mỹ đã hứa. Hiện tại, nạn thiếu điện đã bắt đầu tăng, do đó nạn cúp điện thường xuyên tại các thành phốâ lớn, đặc biệt các thành phố du lịch như Vũng Tàu, Nha Trang, Huế, Ðà nẵng và Ðà Lạt v.v. mỗi ngày một tăng. Hiện giới công thương buôn bán tại các khu vực nói trên đang bị khốn đốn vì nạn cúp điện.
Nếu một giới chức nào đó chỉ một đôi lần được xem cán bộ tuyên vận của bọn cầm quyền cộng sản biểu diễn vài trò ma thuật về điện, tỉ như chỉ cho xem một vài “đập nước nhỏ” ở vùng cao được coi là “sáng kiến” tạo ra điện (thực sự nó có từ thời thuộc địa Pháp); hơn nữa, bọn địa phương đã ngụy tạo và bố trí cho thấy, chỗ nào cũng có trụ điện, có giây tải điện, nhưng không có “ruột điện” hoặc có thì chỉ để tượng trưng. May mắn lắm mà được hướng dẫn đi quan sát một vài trạm biến điện kiểu 220kv của Trung quốc chuyển tải tới Việt Nam để bán cho vùng Bắc Sơn hay khu vực Nậm Thà tại Lào rồi nói Việt Nam đã phong phú hóa điện nông thôn; để rồi từ đó kết luận, là 92% dân chúng đã có nguồn cung cấp điện; quả thật đây là một chuyện khôi hài và là một việc phóng đại vô căn cứ. Phải chăng đây là một cách ngoại giao, cho VC đi máy bay giấy. Ngay cả việc xây dựng 02 tổ điện hạt nhân 2 x2 MW tại Ninh Thuận nếu thành công đi nữa thì Việt Nam vẫn bị thiếu điện cực kỳ nghiêm trọng.
II -) Tăng trưởng kinh tế: Hiện tại phần lớn ai cũng rõ, người Việt đang bước vào thế mê hồn trận mà cả Mỹ lẫn CSVN đang tung ra nhiều quái chiêu coi có vẻ rất hiền, nhưng đủ sức làm nát bét hàng ngũ quốc gia Việt Nam ở hải ngoại.
Thực sự kinh tế Việt Nam không giống như Việt Cộng (VC) và những tên ma đầu nâng đỡ chúng rêu rao; dù có ngụy tạo các con số trên bảng thống kê bằng cách nâng cao Tổng Sản Lượng Nội Ðịa GDP (Gross Domestic Product) đi nữa thì cũng chỉ thay đổi đôi chút chứ không cao giống như các con số trong bảng báo cáo.
Chúng tôi xin phép đưa ra một vài số liệu dưới đây để chứng tỏ sự dối trá của VC trên bình diện kinh tế.
Thử làm một cuộc so sánh giữa Việt Nam và Thái Lan. Sở dĩ chọn Thái lan, vì trước năm 1975 Miền Nam, tức Việt Nam Cộng Hòa và Thái Lan đều tương đương với nhau.
Trước khi so sánh, chúng tôi xin nhắc lại một sự kiện điển hình là, vào đầu năm 2000, tại Trung Tâm Quản Trị Kinh Tế Hà Nội, (Centre Institutue For Economic Management), Giáo sư Kenmariza, một người Nhật thân cộng trước đây từng chống chiến tranh Việt Nam. Trong một buổi nói chuyện ông đã phải sửng sốt thốt lên: “Tại sao người Việt Nam thông minh, cần cù và đất đai màu mỡ như vậy, cớ gì Việt Nam lại quá nghèo. Làm sao Việt Nam có thể trở thành con rồng hay con cọp như Thái Lan vào năm 2020? Tuy Việt Nam hiện đang ở tình trạng của Thái Lan vào những năm 1970, nhưng mức tăng trưởng kinh tế không còn được như trước nữa, vì đã có quá cạnh tranh khốc liệt của Trung Hoa và Ấn Ðộ.
Xin trưng ra một vài ví dụ điển hình dưới đây để theo dõi và so sánh:
a -/ Thứ nhất - Năm 1968, Tổng Sản Lượng Nội Ðịa (TSLNÐ), tiếng Anh gọi là GDP (Gross Domestic Product) của Thái Lan là 157/USD/người, trong khi đó VNCH là 163/USD/người, VNCH cao hơn Thái Lan 6 đô la. Qua năm 2002, CSVN nói là tăng 410/USD/người, thì Thái Lan đã trên 1970 USD/người. Với con số 410/USD/người, CSVN khoe là có tiến bộ rõ rệt; vì từ 163 đô la của năm 1968 đã nhảy vọt lên tới 410 đô la trong năm 2002 thì thiệt quá quý. Tuy nhiên, nếu đem so sánh con số 410 đô la của năm 2002 và 163 đô la của năm 1968, thì thử hỏi liệu có bằng 163 đô là của VNCH năm 1968 trước đây không.
Hơn nữa, vì 30 năm qua đồng đô la đã nhiều bị lần phá giá. Xin ghi nhớ, trong kinh tế học, thường thì người ta áp dụng phương pháp chuyển hoán của Gs Robert C.Sahr thuộc Ðại học “Oregon State University” để tính giá tương đương. Kết quả cho thấy: 410 USD/người của VC năm 2002 chỉ có giá trị bằng 86.10 USD/người của năm 1968 thay vì 163USD/người của Miền Nam trước đây. Như thế, kinh tế của CSVN đang“chạy lùi” chứ không phải “đi thụt lùi”như mọi người thường nói.
b -/ Thứ hai: Ðem trị giá đồng đô la đổi ra tiền Việt Nam thì dễõ thấy hơn:
Năm 1997, một USD đổi được 11745 đồng; năm 2001, một USD đổi được 15425 đồng; trong vòng 5 năm trị giá đô la tăng thêm 3680 đồng, nói cách khác đồng bạc VN bị phá giá tới 31%; bình quân mỗi năm bị mất 6%, đó là chưa kể hiện nay, những tháng cuối của năm 2007 thì một USD hiện đổi được trên 16.000 đồng bạc VN.
c - /Thứ ba: Nạn buôn lậu bạc giả. Lấy năm 2005 làm chuẩn, người ta thấy nội trong 3 tháng đầu của năm 2005, theo báo cáo của ông Nguyễn Ðức Phú, Phó Phòng Kiểm Soát Ðiều Tra Và Xét Xử Án Sơ Thẩm Viện Kiểm Soát Nhân Dân, tức Tòa Án Lạng Sơn cho biết đã bắt được trên 20 vụ buôn bán lậu bạc giã từ Trung quốc sang. Theo quy định của giới buôn lậu lúc bấy giờ, thì cứ 3 triệu bạc Việt Nam thật thì mua được 10 triệu bạc giả, Và mỗi lần bắt được bạc giả thì tịch thu được hàng hằng tỉ đồng chứ không phải số nhỏ. Thử hỏi với việc buôn bán lậu bạc giả công khai và lộng hành như thế, liệu không biết nền kinh tế Việt Nam sẽ sa sụp tới đâu chứ đừng vội nói đến việc tăng trưởng kinh tế.
d - / Nạn tham nhũng: Theo ông Nguyễn An Bình, Tổng Giám Ðốc công ty Ðịa Ốc Sài Gòn đã trả lời như sau khi có người đặt vấn đề tiết kiệm tiền để dành mua nhà ở. Ông Tổng Giám đốc Bình nói: “Lấy tiền lương của chúng ta mà so sánh với giá nhà đất là một điều cực kỳ vô lý và khập khểnh. Trên thực tế, khó ai mà sống được nhờ đồng lương. Và cũng vì nạn tham những, không trong sáng trong sổ sách kế toán mà đài Radio Úc châu phát thanh ngày 16-4-2004 thông báo cho biết là, quỹ IMF đã chấm dứt việc tháo khoán đợt II số tiền 100 triệu USD cho Việt Nam. Lý do: Không phải Việt Nam hết nghèo mà vì CSVN đã không chứng minh được kế toán một cách minh bạch. Chỉ mới cách đây có mấy năm, tình trạng vốn đã tồi tệ đến thế, mà bây giờ NHTG lại phong tặng cho Việt Nam là một nước tiến bộ vượt bực, và nạn nghèo đói giảm chỉ còn lại dưới 20%, thật quá vô lý.
Lần lượt cũ soát lại các vấn nạn liên quan đến kinh tế liệt kê ở trên, quý độc giả chắc đã thấy được một bức tranh kinh tế tại Việt Nam thật quá bi thảm. Nếu không có sự tiếp tay của đồng bào hải ngoại hàng năm chung sức “tiếp máu” trên 4 tỉ USD cho Việt Nam, thì chế độ CSVN đã tiêu vong từ lâu rồi, đừng vội cho là nó sẽ trở thành một nước có “Thu Nhập Trung Bình” trong vài năm tới.
Riêng việc ông Klaus Rohland, nguyên Chủ tịch NHTG tại Việt Nam cho rằng, nhờ tăng trưởng kinh tế, phát triển nhanh mà Việt Nam, từ một nước từng nhập khẩu gạo cho dân, nay đã trở thành nước xuất khẩu vào hàng II trên thế giới. Với lời phát biểu nầy, quả thật ông Klaus Rohland đã nói không đúng với thực tế địa lý về kinh tế của Việt Nam. Xin nhớ, ngay thời kỳ phong kiến của triều Nguyễn và trong giai đoạn lịch sử cận đại, đồng bằng sông Cửu Long đã là một vựa lúa phì nhiêu, từng sản xuất lúa gạo đủ nuôi sống Việt Nam đứng sau Miến Ðiện và Thái Lan; chưa bao giờ người dân Việt Nam bị đói.
Ngoại trừ trong hai năm 1945-1946 vì bị quân phiệt Nhật ép buộc người dân phải phá ruộng lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, ngặt hơn, lúa dư thừa trong Nam không chở ra miền Bắc tiếp tế cho dân chúng, nên mới bị chết đói tới 2 triệu người. Về sau dù bị chiến tranh tàn phá, nhưng vựa lúa miền Nam vẫn đủ nuôi sống VNCH. Vì thế nếu cho là nhờ NHTG mà Việt Nam trở thành nước sản xuất lúa gạo đứng nhì là một sai lầm lớn.
Có điều chúng tôi muốn đặt câu hỏi với các quan chức NHTG. Theo báo cáo của NHTG ngày 31-10-2007, thì Việt Nam đã được giảm nghèo, kinh tế đã tăng tới 7.3%, và chỉ một vài năm nữa thôi, Việt Nam sẽ trở thành một nước có thu nhập trung bình. Khẳng định như thế, Việt Nam ắt đã có một nền kinh tế phồn vinh, người dân đã có cơ may được hưởng một đời sống sung túc, cớ sao lại có hàng trăm ngàn phụ nữ Việt Nam; những người phụ nữ Á châu thường sống theo văn hóa cổ truyền của dân tộc và truyền thống Ðông phương; chưa có chồng thì đặt nặng chữ “Trinh” mà có gia đình rồi thì xem trọng chữ “Tiết”; thậm chí giới nầy thà tự sát quyên sinh còn hơn để mất cái Trinh và thất cái Tiết. Với hoàn cảnh Việt Nam đã phát triển như NHTG thông báo, tại sao họ không ở lại sống dưới mái ấm gia đình tại quê nhà giống như những người phụ nữ tốt số khác mà lại phải chấp nhận xa xứ, bán thân nuôi miệng và gia đình ở các nước như Hàn Quốc, Ðài Loan, Singapor v.v.Nói chi đến hàng ngàn trẻ em vô tội bị bán làm “nô lệ tình dục” tại nước láng giếng Kampuchia và Thái Lan.
Thử hỏi tầng lớp nầy là hạng người vì ham mê nhục dục, hay quá nghèo mà phải bán thân. Ngoài ra, chưa kể hiện đã có hơn 70 ngàn công nhân đang tranh nhau lo hối lộ để được ra nước ngoài lao động kiếm tiền. Như thế thì thử hỏi NHTG nghĩ sao?. Với sự kiện đó thì “Giảm Nghèo” ở đâu? Và “Tăng Trưởng Kinh Tế” ở chỗ nào? Mặt khác, nếu thực sự có tăng trưởng kinh tế đôi chút; tài chánh do đó dồi dào hơn, thì xin hỏi quý quan chức NHTG, là số tiền được tăng đó, theo hiểu biết của quý vị, nó thực sự thuộc sở hữu quần chúng, hay nằm gọn trong túi tham không đáy của bọn cán bộ cộng sản?
Phùng Ngọc Sa.


Không có nhận xét nào: